Thứ Sáu, 15 tháng 2, 2013

Ông Đồ Già

“ÔNG ĐỒ GIÀ”,
NỖI NIỀM, TÀN TÍCH CỦA MỘT THỜI LỤI TÀN…
 
 

tranh: họa sĩ Thanh Trí
  
Năm nay đào lại nở
Không thấy ông đồ xưa
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
 
Vào những dịp tết đến, xuân về, người Việt chúng ta không mấy ai không nghĩ tới những vần thơ giản dị mà thăm thẳm đi vào lòng người ấy. Nhưng ít người nhớ rằng tác giả của nó, thi sĩ Vũ Đình Liên, thành viên thuộc làn sóng thứ nhất của phong trào Thơ Mới, sẽ tròn bách niên vào năm nay.
 
Vũ Đình Liên sinh năm 1913 tại Hà Nội, nhưng quê gốc của ông tại tỉnh Hải Dương. Ông đỗ tú tài năm 1932 và sau đó làm nghề dạy học tại nhiều trường để kiếm sống. Tiếp đó, ông học thêm và đậu cử nhân Luật khoa dưới thời Pháp, rồi làm công chức ở Hà Nội.
 
Sau năm 1945, Vũ Đình Liên tiếp tục theo con đường sư phạm: trong nhiều năm, ông là Chủ nhiệm khoa Tiếng Pháp tại Đại học Quốc gia và là người thày tận tụy của nhiều thế hệ sinh viên Hà Nội. Ngoài ra, ông còn tham gia dịch thuật, lý luận và phê bình văn học - ông cũng là thành viên sáng lập của Hội Nhà văn Việt Nam.
 
*
 
Mặc dù gần như suốt đời làm nghề dạy học, nhưng văn thơ đã gắn bó với Vũ Đình Liên suốt cuộc đời. Cùng những thi sĩ đầu đàn của giai đoạn đầu Thơ Mới như Thế Lữ, Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp…, ông từng đăng đàn diễn thuyết năm 1935 tại Nam Định để cổ súy cho phong trào này.
 
Tuy nhiên, khác với đại đa số các nhà Thơ Mới đương thời, lấy tình ái và “cái tôi” cá nhân, nhiều khi cực đoan, làm mục đích chính cho cuộc đời và sự nghiệp thi phẩm của mình, Vũ Đình Liên nổi bật với lòng nhân hậu và tình người cao cả, mà một ví dụ tiêu biểu và nổi bật là thi phẩm “Ông đồ già”, được coi là một kiệt tác của thi ca Việt Nam.
 
Những nét ấy đã được thể hiện trước đó nhiều năm, qua bài thơ đầu tiên ông làm năm 13-14 tuổi, giờ có lẽ ít người còn nhớ tới. Đó là “Hồn xưa”, cũng là một áng thi ca đượm tính hoài cổ nhưng ít phổ biến - suốt đời, Vũ Đình Liên trân trọng thi phẩm này và giữ cho riêng ông, còn hơn cả bài “Ông đồ già”:
 
Lặng lẽ trên đường lá rụng mưa bay
Như khêu gợi nỗi niềm thương tiếc
Những cảnh và những người đã chết
Tự bao giờ mà nay biết tìm đâu
 
Những cảnh xưa rực rỡ đến trăm màu
Mà êm ả, mà tưng bừng, mà bé nhỏ
Đẹp như bức tranh, hay như bài thơ cổ
Những ngày xưa yên lặng nhẹ nhàng
 
Có những điều ước vọng mơ màng
Mà bây giờ chúng ta không còn nữa
Nhưng biết tìm đâu những cảnh xưa người cũ
Lặng lẽ bên đường lá rụng mưa bay
 
Ý thơ “cảnh cũ người xưa” trong bài thơ “Hoài cổ” đã được Vũ Đình Liên làm cho thăng hoa trong “Ông đồ già”, một kiệt tác trữ tình mà ông đã bỏ ra ròng rã một năm, từ Tết năm 1935 đến Tết năm 1936 mới hoàn thành và đăng lần đầu trên báo “Tinh hoa”. Vũ Đình Liên nhận rằng với “Ông đồ già”, ông đã tìm được con đường riêng, là tình thương của mọi người, là truyền thống của dân tộc, cái mới trong cái cũ.
 
Mỗi năm hoa đào nở
Lại thấy ông đồ già
Bày mực tàu, giấy đỏ
Bên phố đông người qua.
 
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay.
 
Kể lại xuất xứ bài thơ, chính nhà thơ cho hay: khi ấy ở phố Hàng Bồ của Hà Nội có một ông đồ ngồi viết thuê chữ, câu đối cho khách. Hàng Bồ là phố bán hàng xén, có giấy, bút mực. Ông đồ nghèo không có sẵn giấy, chờ lúc khách đến mua chữ, mua câu đối, ông mới vào trong mua giấy.
 
Mẹ vợ của nhà thơ Vũ Đình Liên có một cửa hàng tạp hóa ở đó và chính vợ ông từng trực tiếp bán giấy cho ông đồ nghèo. Trong hồi tưởng, Vũ Đình Liên cũng hồn nhiên nói rằng nhiều lúc ông nghĩ, nếu ông không “tán tỉnh” và yêu cô hàng xén - về sau trở thành vợ ông - thì chắc gì ông đã để lại cho hậu thế thi phẩm “Ông đồ già” bất hủ!
 
Hình ảnh “ông đồ già” - được Vũ Đình Liên coi như “cái di tích tiều tụy đáng thương của một thời tàn” (lời ông) - được tác giả thuật lại dưới lời thơ giản dị nhưng chứa chất rất nhiều cảm xúc:
 
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu
 
Ông đồ vẫn ngồi đấy
Qua đường không ai hay
Lá vàng rơi trên giấy
Ngoài trời mưa bụi bay…
 
Trong tác phẩm “Thi nhân Việt Nam” ra đời cách đây hơn bảy chục năm, nhà phê bình Hoài Thanh đã có những đánh giá rất tinh tế và chuẩn mực về “Ông đồ già”: “… hai nguồn thi cảm chính của người (tức Vũ Đình Liên) là lòng thương người và tình hoài cổ. Người thương những kẻ thân tàn ma dại, người nhớ những cảnh cũ người xưa.
 
Có một lần hai nguồn cảm hứng ấy đã gặp nhau và đã để lại cho chúng ta một bài thơ kiệt tác (…) Ít khi có một bài thơ bình dị mà cảm động như vậy. Tôi tưởng như đọc lời sám hối của cả bọn thanh niên chúng ta đối với lớp người đương đi về cõi chết”.
 
Như Hoài Thanh nhận định, “theo đuổi nghề văn, mà làm được một bài thơ như thế cũng đủ - nghĩa là đủ để lưu danh, đủ với người đời”, đọc lại bài thơ, dễ cảm tấm lòng của tác giả, và thấu nỗi hoài niệm man mác về một thời vang bóng. Dù không phải mang đề tài tình ái, bài thơ còn tính lãng mạn sâu xa hơn cả rất nhiều vần thơ vinh danh ngợi ca ái tình.
 
Trong thi phẩm, Vũ Đình Liên đã cất lời than khóc một thời lụi tàn, cho dù biết dường như ông vẫn biết đó là một tiến trình, một định mệnh không thể cứu vãn, đảo ngược. Nhưng chính bản thân ông, cũng ít nhiều đại diện cho một thế hệ, đã và đang giã từ chúng ta từng giờ, từng phút. Một nỗi niềm, từng ám ảnh, day dứt...
 
*
 
Dậy đi thôi con thuyền nằm dưới bến,
Vì đêm nay ta lại căng buồm đi.
Mái chèo Mơ để bâng khuâng trôi đến
Một phương trời mây lọc ánh trăng khuya.
 
Gió không thổi, nước sông trôi giá lạnh,
Thuyền đi trong bóng tối lũy thành xưa.
Trên chòi cao, tự ngàn năm sực tỉnh
Trong trăng khuya bỗng vắng tiếng loa mơ.
 
Tự ngàn năm cả hồn xưa sực tỉnh,
Tiếng loa vang giây lát động trăng khuya,
Nhưng giây lát lại rơi im, hiu quạnh,
Cả hồn xưa yên lạng trong trăng khuya.
 
Trôi đi thuyền! Cứ trôi đi xa nữa!
Vỗ trăng khuya bơi mãi! Cánh chèo Mơ!
Lòng ta là những hàng thành quách cũ,
Tự ngàn năm bỗng vắng tiến loa xưa.
 
Trong đời sáng tác không nhiều, nổi tiếng trong chừng mười năm trước mốc thời gian 1945 rồi dừng lại trên tư cách một nhà thơ, Vũ Đình Liên đã có những lời tự sự khiêm nhường và rất cảm động ngay từ khi còn rất trẻ: “Tôi bao giờ cũng có cái cảm tưởng là không đạt được ý thơ của mình... Cũng vì không tin thơ tôi có một chút giá trị nên đã lâu tôi không làm thơ nữa”.
 
Vũ Đình Liên, một hồn thơ đất Việt đã sống lặng lẽ giữa dòng đời xuôi ngược của một đô thị lớn, trong những năm tháng xô bồ của xã hội Việt Nam thời chiến và hậu chiến suốt nửa thế kỷ sau đó. Gần hai chục năm sau ngày ông ra đi, nhớ về ông, những kẻ hậu sinh không khỏi có những lúc sững sờ tự hỏi mình:
 
Những người muôn năm cũ
Hồn ở đâu bây giờ?
 
 

Thứ Năm, 14 tháng 2, 2013

Mùa Lễ VALENTINE


                                                                      Chúc Mừng Ngày Lễ Tình Yêu
                                                                                                                                  THU HOA
                                                                           
    Mùa Lễ Valentine

                                                      Chiến Tranh, Tình Yêu và Nỗi Nhớ 
                                                                                                                     BÍCH HUYỀN
                                                                                  Juke Box  Nguyen Anh  9   

Thứ Tư, 13 tháng 2, 2013

Xuân Viễn Xứ


                                                                Xuân Viễn Xứ


                                                          Thơ HỒNG THỦY - NGUYỄN ÁNH 9 phổ nhạc
                                                                               DIỆU HIỀN trình bầy
                                                           Anh hỏi em:
                                                           Mỗi độ Xuân về, Xuân viễn xứ
                                                           Em có bao giờ nghĩ đến Tết quê hương?
                                                           Anh nhé Anh!
                                                           Em vẫn còn luôn nhớ mãi,
                                                           Những cội mai vàng trong nắng ấm ban mai.
                                                           Mẹ thường hỏi em:
                                                           Xuân quê hương bao giờ ta trở lại?
                                                           Nhìn mắt Mẹ buồn, em cảm thấy xót xa.
                                                           Em vẫn biết Mẹ đang nhớ quê nhà,
                                                           Nhớ cội mai vàng trước ngõ lúc xuân sang.
                                                           Ta dìu nhau ...
                                                           Đường hoa Nguyễn Huệ muôn sắc thắm,
                                                           Chợ Tết Sài Gòn dập dìu bóng giai nhân.
                                                           Anh hỡi Anh!
                                                           Những hẹn hò ngày xưa ấy,
                                                           Mỗi khi đêm về, em thao thức bâng khuâng...
                                                           * * * *
                                                           Em vẫn biết Mẹ đang nhớ quê nhà,
                                                           Nhớ cội mai vàng trước ngõ lúc xuân sang.
                                                            Flower line graphics

Thứ Bảy, 9 tháng 2, 2013

Vua Quang Trung Đại Phá Quân Thanh






Vua Quang Trung


 
 
Vua Quang Trung (1788-1792). Ông Nguyễn Huệ (sau đổi
tên là Nguyễn Quang Bình) là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu
trí quyền biến, mẹo mực như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn (thuộc huyện An
Khê, Bình Định) giúp anh là Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được phong
làm Bắc Bình Vương, đóng đô ở đất Phú Xuân.
Năm mậu thân (1788) quân nhà Thanh mượn tiếng sang cứu nhà
Lê, chiếm giữ thành Thăng Long, có ý muốn lấy đất An Nam, Bắc Bình
Vương lên ngôi Hoàng Đế đặt niên hiệu là Quang Trung, rồi đem binh đi
đánh giặc.
 
 Vua Quang Trung Đại Phá Quân Thanh. Bắc Bình Vương
được tin quân nhà Thanh đã sang đóng ở Thăng Long, lập tức hội các
tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh, các tướng đều xin hãy chính ngôi
tôn, để yên lòng người rồi sẽ khởi binh.
Bắc Bình Vương bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, ngày 25 tháng mười
một năm mậu thân (1788), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, rồi tự mình
thống lĩnh thủy bộ đại binh ra đánh giặc Thanh. Ra đến Nghệ An nghỉ lại 10
ngày để kén lấy thêm binh, cả thảy được 10 vạn quân và hơn 100 con voi.
Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ nhủ bảo mọi người
phải cố gắng đánh giặc giúp nước. Đoạn rồi kéo quân ra Bắc, đến ngày 20
tháng chạp thì đến núi Tam Điệp. Bọn Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhiệm đều ra
tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui về
giữ chỗ hiểm yếu.
Vua Quang Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này là
mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định
mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ
chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất
chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không
thôi, dân ta hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ
Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm
nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng
nữa."
Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn Tết Nguyên Đán trước, để
đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng giêng thì vào
thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Đoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến
nghe lệnh điều khiển.
Đại tư mã Sở, Nội Hầu Lân đem tiền quân đi làm tiên phong. Hô hổ
Hầu đem hậu quân đi đốc chiến.
Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thủy quân, vượt
qua bể vào sông Lục Đầu. Rồi Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng
đường mé Đông; Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để
chặn đường quân Tàu chạy về.
Đại đô đốc Bảo, đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tượng mã đi
đường núi ra đánh phía Tây. Mưu thì xuyên ra huyện Chương Đức (nay là
Chương Mỹ), tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì,
đánh quân Điền Châu; Bảo thì thống suất quân tượng mã theo đường huyện
Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả.
Năm quân được lệnh đều thu xếp đâu đấy, đến hôm 30 khua trống
kéo ra Bắc. Khi quân sang sông Giản Thủy, cánh nghĩa quân của nhà Lê
tan vỡ chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc các quân đuổi theo đến huyện
Phú Xuyên bắt sống hết được toán quân Tàu đóng ở đấy, không một người
nào chạy thoát được; vì thế cho nên không có tin báo về, những quân Tàu
đóng ở làng Hà Hồi và làng Ngọc Hồi không biết gì cả. Nửa đêm ngày mồng
3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân vua Quang Trung đến làng Hà Hồi
vây kín đồn giặc, rồi bắc loa lên gọi, các quân dạ rầm cả lên, có hàng muôn
người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi thất thố, đều xin hàng, bởi
thế, lấy được hết cả quân lương và đồ khí giới. Sáng mờ mờ ngày mồng
năm, quân Tây Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như
mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại
làm một, lấy rơm cỏ giấp nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20
người khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người
cầm khí giới theo sau. Vua Quang Trung cưỡi voi đi sau đốc chiến, quân An
Nam vào đến gần cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào chém,
quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao
tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn đi, lấy được
các đồn, giết quân Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng, máu chảy như
tháo nước. Quân các đạo khác cũng đều được toàn thắng. Quan nhà Thanh
là đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy
Thăng đều tử trận cả; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng ở Đống
Đa125 bị quân An Nam vây đánh cũng thắt cổ mà chết.
Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên
ngựa và mặc áo giáo, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân
các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau sang cầu,
một lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy những thây
người chết.
Vua Chiêu Thống cũng theo Tôn Sĩ Nghị sang sông cùng với bà
Hoàng Thái Hậu và mấy người cận thần chạy sang Tàu.
Đạo quân Vân Nam và Quý Châu đóng ở miền Sơn Tây nghe tin
Tôn Sĩ Nghị đã thua, cũng rút quân chạy về.
Ngày hôm ấy vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, áo ngự bào bị
thuốc súng bắn vào đen như mực. Đến trưa thì vào thành Thăng Long, sai
tướng đem binh đuổi đánh quân nhà Thanh đến cửa Nam Quan. Những dân
Tàu ở gần Lạng Sơn sợ khiếp, đàn ông, đàn bà dắt díu nhau mà chạy, từ cửa
ải về mé bắc hơn mấy trăm dặm, tịnh không nghe thấy tiếng một người
nào!
Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm
những người Tàu trốn tránh ở đâu ra thú tội, đều được cấp cho áo mặc,
lương ăn. Lại bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong những giấy
má bắt được có tờ mật dụ của vua Càn Long nói rằng: " Việc quân nên từ
đồ, không nên hấp tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho
các quan nhà Lê về nước cũ hợp nghĩa binh, tìm tự quân nhà Lê đem ra
đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng
người nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến, ai là chẳng gắng sức.
Nguyễn Huệ tất phải tháo lui; ta nhân lấy dịp ấy mà sai Tự quân đuổi theo,
rồi đại binh của ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy nỗi mà nên được
công to, đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước, nửa theo
đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hãy
đưa thư sang tỏ bảo đường họa phúc xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào
thủy quân ở Mân, Quảng đi đường bể sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng
Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch, thế tất phải
chịu thua. Bấy giờ ta sẽ nhân mà là ơn cho cả hai bên; tự đất Thuận Hóa
Quảng Nam trở vào Nam, thì cho Nguyễn Huệ; tự châu Hoan, châu Ái trở ra
Bắc thì phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế cả hai
bên, rồi sẽ có xử trí về sau".
Vua Quang Trung đem tờ mật dụ ấy bảo với Ngô Thì Nhiệm rằng: "
Ta xem tờ chiếu của vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để
lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận, tất là lấy làm xấu hổ,
chắc không chịu ở yên. Hai nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên
dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà người chủ
trương cho mới được".
Ngô Thì Nhiệm vâng lệnh làm thư đại khái nói rằng: "Nước Nam vốn
không dám chống cự với đại quốc, nhưng chỉ vì Tôn Sĩ Nghị làm nhỡ việc
cho nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng hòa."
Vua Quang Trung sai sứ đem thư sang Tàu, và lại sai đem những
quân nhà Thanh đã bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày
cho về nước. Xếp đặt mọi việc xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô Văn Sở
và Phan văn Lân ở lại tổng thống các việc quân quốc; còn những việc từ lệnh
giao thiệp với nước Tàu thì ủy thác cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích cho
được tự tiện mà khu xử, hễ không có việc gì quan hệ thì bất tất phải đi tâu
báo mà làm gì.
 
 
 

Tham Khảo:  VIỆT NAM SỬ LƯỢC của Trần Trọng Kim - ấn hành năm 1920
                 (Bấm vào đây để xem toàn bộ: Việt Nam Sử Lược - pdf của Viện Việt Học - California USA )

CHÚC MỪNG NĂM MỚI

https://blogger.googleusercontent.com/img/b/R29vZ2xl/AVvXsEgP7BmdLuF24uCxG-P1nl488ueft_5Nq1Hi8D8Ur2b_Jd5ThMvAzZtIDvJQt2eEgyekl7YgSO_jtAV2OwN20zQYiNFxgwO2O65I0nhDCiQcatVBeFLblI3eg-GzR8PbcY_KKUJBjrjF1wY/s1600/Th%C6%B0+phap+ch%C3%BAc+n%C4%83m+m%E1%BB%9Bi+sinh+%C4%91%E1%BB%99ng+(+Blog+mi+t%C3%B4m..).gif



Xin Chúc Quí Đọc Giả và Thân Hữu 

Một Năm Mới  Quí Tỵ

AN VUI, HẠNH PHÚC.

 
 
 

 

Thứ Năm, 7 tháng 2, 2013

Năm Tỵ Nói Chuyện Rắn


 
Năm Rồng vừa chấm dứt thì năm Rắn liền tới với chúng ta. Cảnh tượng quen thuộc ngày xưa vẫn còn lai vãng tâm trí mọi người:
 
Rồng chầu ngoài Huế
Ngựa tế Đồng Nai,
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
Thương người xa xứ lạc loài tới đây,
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh cây sẽ về!
 
Rồng xanh, rồng vàng tạm lánh mình trong thời gian 12 năm, nhường chỗ cho rắn với năm Tân Tị khởi đầu ngày Nguyên Đán, mồng một tháng Giêng, tức là ngày 24.1.2001. Chúng ta biết rằng Âm lịch khai dung từ năm 2,637 trước Kitô, nhằm năm 61 đời Hoàng đế bên Trung Quốc. Như vậy Âm lịch đã xuất hiện cách đây: 2,637 năm cộng 2001, vị chi: 4,638 năm. Năm nay, 2001 thuộc vào "Vận niên lục giáp" thứ 78, khởi đầu từ năm 1984 và sẽ chấm dứt vào năm 2,043. Biết rằng mỗi giáp trên nguyên tắc chỉ có 10 năm mà thôi (chẳng phải là 12 năm), thì lục giáp là 10 x 6 = 60 năm, tức là một thế kỷ của Lịch đại Á Đông. Chu kỳ 60 năm này, người Tây phương gọi là Cycle sexagésimal. Chu kỳ này luôn luôn khởi đầu với năm Giáp Tý, cho nên quyển lịch chính thức của ta, được gọi là Hoàng Việt Giáp Tý Niên Biểu, do cụ Nguyễn Bá Trác, Quan Lộc Tự Khanh, Tá Lý Bộ Học (Huế) biên soạn, và do Bộ Học ấn hành năm Khải Định thập niên, tam nguyệt nhựt (1925).
Nếu đại chu kỳ là 60 năm, thì tiểu chu kỳ là 12 năm, khởi đầu với năm Tý, mà biểu tượng là Chuột. Chu kỳ này, Tây Phương gọi là Cycle duodénaire. Trong một đại chu kỳ 60 năm, có năm tiểu chu kỳ 12 năm (12 x 5 = 60), biết rằng 60 là tối thiểu bội số chung của 10 và 12 (10 là phần Giáp (Thập can), còn 12 là phần Tý (Thập nhị chi).
 
Những Điều Nên Biết Về Loài Rắn
Nói tới loài Rắn, chúng ta phải chia ra hai loại: rắn hiền và rắn dữ. Cả hai đều thuộc ngành Bò sát (Raptiles), họ Ophidiens. Rắn hiền như rắn nước, rắn học trò... bơi lội thong thả nơi hồ ao, kiếm ăn tôm cá, ếch nhái. Loại rắn này dễ lầm lẫn với giống lươn (anguille), mà chúng ta tìm thấy trong câu đối lạ lùng, lửng lơ và lắt léo sau đây:
 
Le lội lung lăng lay lá lách
Lươn lo lòn lỏi lọt lùm lau.
 
Trong loài rắn dữ, tức là rắn độc, chúng ta không khỏi rùng mình khi nhắc tới: rắn hổ mà Tây phương gọi là Cobra, Naja tripudians, rắn hổ mang mà họ gọi là Bongare, Bungarus fasciatus, rắn lục mà họ gọi là Serpent vert, Serpent bananier, Trimeresurus, rắn đẻn mà họ gọi là Vipere lachesis... Nhưng mà con rắn dễ sợ và nguy hiểm nhất, dài tới 4 thước, là con Ophiophagus elaps, hay là Naja hamadryas, sinh sản khá nhiều bên Ấn Độ. Rắn này có khả năng rượt theo người để cắn chết. Nhà văn Maurice Maindron có nói tới giống rắn này trong quyển tiểu thuyết La Gardienne de I' Idole Noire. Tuy thế, cũng con rắn đó đã tự ý quấn thân nhiều vòng, để làm thành một cái bệ cao, chịu cho Đức Phật an tọa lên trên, mà tham thiền nhập định, tránh cho Ngài khỏi bị bệnh tê thấp và đồng thời tỏ ra sự quy thuận hoàn toàn đối với thần lực vô lường của Ngài.
  
Rắn Trong Lịch Sử Việt Nam
 
Trong lịch sử ta có biết bao nhiêu là truyện rắn. Chúng ta chỉ nhắc lại một truyện điển hình nhất là Thị Lộ mà người đương thời cho là hiện thân của loài rắn độc, có thể toát lược như sau:
 
Năm Nhâm Tuất (1442), vua Lê Thái Tông (con vua Lê Lợi) đi tuần du phương đông, duyệt võ ở Chí Linh. Nguyễn Trãi lúc bấy giờ đã về trí sĩ tại Côn Sơn, bèn ra nghênh tiếp xa giá nhà vua. Lê Thái Tông bèn đến viếng chùa Côn Sơn là nơi có ẩn am của Nguyễn Trãi. Nhìn thấy tì thiếp của Nguyễn Trãi là Nguyễn Thị Lộ nhan sắc lộng lẫy, lại có biệt tài về văn chương, vua Lê Thái Tông bèn phong cho chức Lễ Nghi Học Sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh nhà vua. Đến khi Đông tuần, xa giá về tới Trại Vải (Lệ Chi Viên), thuộc xã Đại Lại, huyện Gia Định, nay là Gia Bình, thình lình nhà vua nhuốm bệnh, lên cơn sốt dữ dội. Thị Lộ phải hầu hạ, thang thuốc suốt đêm, rồi nhà vua băng hà. Các quan hốt hoảng, vội vã và bí mật phụng giá về Kinh, nửa đêm vào cung mới làm lễ phát tang. Tất cả triều thần đều buộc tội Thị Lộ đã âm mưu giết vua, liền đem nàng ra giết chết.
 
Có sách nói rằng Thị Lộ đã bỏ thuốc độc vào chén cho vua uống. Có sách nói vua bị cắn lưỡi mà chết. Riêng phần Nguyễn Trãi, ông chỉ nói rằng: "Nếu có tội thì cứ chiếu pháp luật mà nghiêm trị".
 
Thảm trạng này xảy ra đúng lúc trong triều có nhiều võ quan theo phe Lê Sát, sinh lòng đố kỵ vì thấy ngày trước Nguyễn Trãi được Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi) trọng dụng, đem lòng oán ghét, nhân cơ hội này, liền nghi Nguyễn Trãi là chủ mưu sát đế. Thế là sau đó, quan Thừa Chỉ Nhập Nội Hành Khiển Đại thần Nguyễn Trãi đã bị giết và cả ba họ bị tru di.
 
Truyền thuyết cho rằng: lúc lập vườn tại Côn Sơn, lính hầu của Nguyễn Trãi đã giết chết một ổ rắn gồm mấy mẹ con. Sau đó rắn mẹ tái sinh, bò lên trần nhà nhìn Nguyễn Trãi đọc sách. Rắn nhỏ xuống một giọt máu đào, xuyên thấm qua ba tờ giấy, nhằm ám chỉ là ba họ. Về sau, cũng con rắn đó đã hiện thân nơi Thị Lộ làm ả bán chiếu gom ở Tây Hồ, gặp Nguyễn Trãi, có xướng họa như sau:
 
Ả ở đâu, bán chiếu gom?
Chẳng hay chiếu đã hết hay còn?
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa? Được mấy con?
 
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gom
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
 
Sau đó thì Thị Lộ đã trở thành tì thiếp của Nguyễn Trãi, nhập được gia đình ông ta, để âm mưu phục thù, trả nợ máu ngày xưa là mấy mẹ con đã bị giết oan nơi bụi rậm.
 
Cái án oan này, mãi đến 22 năm sau, vua Lê Thánh Tông mới xét lại. Đó là vụ án lịch sử Lệ Chi Viên. Vua thấy có nhiều điều hàm hồ, oan ức cho một đại công thần khai quốc, liền truyền hủy bỏ bản án trước kia, truy phục chức cho Nguyễn Trãi, tức Lê Trãi, con cháu ông được tìm kiếm và đưa ra làm quan, lại cấp tư điền để con cháu lo việc tế tự hàng năm (1).
 
Sở dĩ vua Lê Thánh Tông đã duyệt lại bản án là vì vợ nhà vua tên Nguyễn Thị Hằng (1445-1505) là cháu gái 4 đời của bà Châu Thị, vợ nhất của Nguyễn Trãi, đã trốn thoát được bản án tru di tam tộc 1442, chạy vào Nam Hà ẩn náu và sinh sống. Bà Châu Thị đem theo được nhiều con, trong đó có Nguyễn Công Duẫn, rồi Duẫn sinh ra Nguyễn Đức Trung, rồi Trung sinh ra Nguyễn Văn Lãng, Lãng sinh ra Nguyễn Hoằng Dụ, Dụ sinh ra Nguyễn Hoằng Kim, tức là Nguyễn Kim (1500-1545), Kim sinh ra Nguyễn Hoàng (1525-1613), tức là chúa Tiên, chúa đầu tiên của nhà Nguyễn.
 
Như thế, Nguyễn Kim là hậu duệ của Nguyễn Trãi. Còn hơn thế nữa, ông tổ xa xưa của Nguyễn Trãi lẫn Nguyễn Kim là Nguyễn Bặc, khai quốc công thần đời nhà Đinh và nhà Lý, từ thế kỷ XI. Ngoài ra gia phả của Nguyễn Du, tác giả Kim Vân Kiều, cũng ghi dòng họ lên tới Nguyễn Bặc. Gần đây hơn trong lịch sử cận đại, tiểu sử của đại thần Nguyễn Hữu Độ, Kinh lược Bắc Kỳ, cũng có ghi là hậu duệ của Nguyễn Trãi. Chúng tôi căn cứ trên hai tài liệu sau đây:
  1. Quyển Chrestomathie Annamite (Quảng Tập Viêm Văn) của Edmond Nordemann (Ngô Đề Mân), ấn hành ở Hà Nội năm 1898, trang 26-27.
  2. Bài Les Familles Illustres de l' Annam: S.E.Nguyễn Hữu Độ của L.Sogny, đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hue, năm 1924, trang 169-204.
Còn như sự kiện Nguyễn Du thuộc dòng họ Nguyễn Trãi thì các nhà văn học sử Dương Bá Cung, Lê Thước, Bùi Văn Nguyên, căn cứ trên nhiều bổn gia phả họ Nguyễn ở miền Bắc và miền Trung, đã xác nhận nhiều sự trùng hợp, mà nhà báo Cô Thần đã đúc kết và nêu lên trong báo Tự Do số 1056, ấn hành ở Sài Gòn ngày 22.11.1960, trang đầu: Công việc tra cứu của cụ Lê Thước cho biết Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng một dòng họ và chung một ông tổ. Ông tổ này là Nguyễn Bặc, mà vua Bảo Đại cũng có nhận là ông tổ của mình, trong quyển sách "Le Dragon d' Annam", Editions Plon, Paris 1980, trang 36-37.
  
Rắn Trong Văn Học Sử Việt Nam
 
Trong văn học sử của ta, mà cũng có liên hệ sử Tàu, chúng ta còn nhớ giai thoại bà Đoàn Thị Điểm (sinh năm Ất Dậu 1705, mà người ta cho là tác giả Chinh Phụ Ngâm, mà cũng có người cho là của Phan Huy Ích) đã đối đáp tài tình với ông anh là Đoàn Doãn Luân. Một hôm ông này muốn thử tài cô em gái, bèn lấy một câu chữ trong Sử Ký của Tư Mã Thiên nói về Lưu Bang (Hán Cao Tổ) làm đề tài để cho bà đối đáp. Câu ấy như sau:
 
Bạch xà đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi
 
Nghĩa là con rắn trắng đón đường, ông Quý (Lưu Bang) liền rút gươm ra chém (con rắn bị đứt làm hai khúc, chết liền).
 
Bà Đoàn Thị Điểm nhanh trí, cũng dùng một câu trong Sử Ký đời vua Nghiêu Thuấn, nói về ông Vũ (tức là vua Hạ Vũ, sau này nối ngôi vua Thuấn, để đối lại như sau:
 
Hoàng Long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết
 
Nghĩa là: Con Rồng vàng đội chiếc thuyền, ông Vũ nhìn trời mà than!
 
Cũng trong Văn học sử của ta, Lê Quý Đôn (1726-1784) đã sáng tác một bài thơ thất ngôn bát cú trong một trường hợp khá ly kỳ như sau: Thuở nhỏ, cậu bé Lê Danh Phương (tên đầu tiên của Lê Quý Đôn) rất cứng đầu (rắn đầu) và biếng học. Cha Phương quở trách, ông phải làm một bài thơ "Rắn Đầu" để tạ tội, với điều kiện mỗi câu trong bài bát cú phải có một tên rắn. Phương vâng lời và đọc ngay như một thần đồng:
 
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà
Rắn đầu biếng học, chẳng ai tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,
Lằn lưng cam chịu vết roi tra.
Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học.
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
 
Đặc điểm của bài thơ này là: nếu ta bỏ hai chữ ở đầu mỗi câu, ta sẽ được một bài Ngũ ngôn bát cú:
Liu điu vẫn giống nhà
Biếng học, chẳng ai tha
Hổ lửa đau lòng mẹ,
Mai gầm rát cổ cha.
Chỉ quen tuồng nói dối,
Cam chịu vết roi tra.
Trâu Lỗ chăm nghề học.
Mang danh tiếng thế gia.
 
Xin lưu ý: Nước Lỗ là quê quán Đức Khổng Tử mà thiên hạ gọi là Vạn Thế Sư Biểu, hay là Sinh Dân Vị Hữu, nghĩa là từ khi có loài người thì chưa có ai (bằng ông ta)! Còn nước Trâu là quê hương của Thầy Mạnh Tử. Tôi còn nhớ một câu xướng độc đáo:
 
Nước lỗ trâu chảy ra Khổng Mạnh
 
Nghĩa là: Dòng nước nhỏ từ lỗ chân trâu ra thì không có (khổng) mạnh mẽ.
Câu này khó quá chưa ai đối được cả!
 
Đã nhắc tới Bảng Nhỡn Lê Quý Đôn (tục danh Lê Danh Phương), tự là Doãn Hậu, hiệu là Quế Đường, sinh ra trong niên hiệu Bảo Thái thứ 7 (1726), đời vua Lê Dụ Tông, thời chúa Trịnh Cương ở xã Diên Hà, tỉnh Sơn Nam (nay là tỉnh Thái Bình), con của ông Lê Phú Thứ và bà họ Trương. Thân sinh đã từng đỗ Tiến sĩ năm 1724 và làm quan đến chức Hình Bộ Thượng Thư. Thuở bé Lê Danh Phương đã nổi tiếng thần đồng về trí thông minh và óc nhớ dai: Hai tuổi đã biết đọc chữ "Hữu" là có, và "Vô" là không. Năm tuổi đã đọc nhiều thiên trong Kinh Thi. Mười một tuổi đã học Sử (Sử Ký của Tư Mã Thiên, Bắc Sử, Nam Sử v.v...), học thuộc lòng tám chín chục trang, đồng thời học luôn cả Kinh Dịch. Mười bốn tuổi học hết Ngũ Kinh, Tứ Thư, sử truyện và sách vở của Bách Gia Chư Tử, mỗi ngày có thể cảm tác mười bài phú mà không cần viết nháp.
 
 
Ngọc Rắn Trong Nhân Gian
 
Người ta thường nói về Nọc Rắn của loài rắn độc, ít ai nói tới Ngọc Rắn. Đây là một câu chuyện có thực ở nước ta. Chúng ta hãy trở về Đèo Hải Vân thời tiền chiến, để nghe một người ở địa phương kể như sau:
 
Thời đó người ta đang xây con đường xe lửa Xuyên Đông Dương, gọi là Transindochinois. Thật ra là Xuyên Việt, vì nước mình rộng lớn và quan trọng, tiêu biểu cho cả hai nước Lào Miên. Chặng đường thứ nhất: từ Hà Nội tới Vinh, chặng đường thứ hai: từ Vinh tới Huế, chặng thứ ba từ Huế vào Đà Nẵng. Chặng này công phu và khó khăn nhất, vì núi non hiểm trở. Đà Nẵng ngày xưa mang tên Thạc Gián, tên làng xã chính của thị xã. Thạc Gián viết nhầm và đọc nhầm là Tu Gián, vì hai chữ Thạc và Tu viết gần như giống nhau. Từ đó, qua sự vụng về và biên chép của các người biên chép và thông ngôn thời Pháp xâm chiếm nước Nam, mà địa danh viết nhầm là Tu Gián đã trở thành Tourane. Còn địa danh Đà Nẵng thì bắt nguồn từ chữ Đà, một thổ âm có nghĩa là Sông, suối. Ví dụ: Đà Rằng ở Phú Yên, Đà Lạt ở cao nguyên. Suối của bộ lạc Lạt Tiếng Chiêm Thành là Ea (Da), cũng có nghĩa là sông là nước. Ví dụ như Ea Trang (Nha Trang) là con sông tre, con sông trên bờ có mọc nhiều tre (Krưm), chữ Krưm đọc trại thành Trang.
 
Trở lại vùng Đà Nẵng, ta lấy quốc lộ 1, trèo đèo Hải Vân quan, đi xuống làng An Cư (Lăng Cô), đi ngang qua Truồi, lần tới Phú Bài, Thần Phù, Dạ Lê, Thanh Thủy, An Cựu, rồi tới Huế, đường dài 110 cây số, đúng 1 độ (degré) của Bắc Vĩ tuyến. Đường này quanh co, lúc làm đường xe lửa, phải đục tới ba bốn cái hầm trong núi cao, trong đó có hai cái hầm dài và hiểm trở nhất là Hầm Sen và Hầm Chuối.
 
Dân địa phương có câu ví ngôn:
 
Túi thui như chui vào Hầm Sen
 
Và hai câu hò để than thân trách phận:
 
Chiều chiều gió thổi Hải Vân
Chim kêu ghềnh đá, gẫm thân em buồn!
 
Hay:
 
Chiều hôm dắt mẹ qua đèo,
Chim kêu bên nớ, vượn trèo bên ni!
 
Thời tiền chiến, có một người cai phu lục lộ, trong lúc đi tuần dọc đường rầy, lúc sắp chui vào Hầm Sen thì chợt thấy lóa mắt bởi nhiều tia ánh sáng. Dụi mắt để nhìn lại lần nữa thì thấy ánh sáng này nhúc nhích và chuyển động. Cai phu liền bật đèn pin rọi thì nhìn thấy luồng ánh sáng đó tỏa ra từ miệng con rắn dài ba thước, đương bò ngang qua đường rầy. Cai phu nhìn kỹ thì thấy con rắn ngậm một hòn ngọc sáng chói. Thấy người và ánh đèn, con rắn liền bò nhanh chui vào Hầm Sen biến mất. Tình cờ một tiều phu già đi ngang qua đây, cai phu kể chuyện lại thì được tiều phu chỉ về cách thức lấy được ngọc rắn. Tiều phu bảo phải bắt một con gà, cột nó vào cái rổ lật ngửa, rồi đặt cái rổ đó lên trên một thau nước và cột chặt gà, rổ và thau nước lại với nhau, làm thế nào thau không bị lật đổ. Xong rồi, cứ việc ngồi rình đừng để cho rắn thần trông thấy.
 
Cai phu y theo, làm đúng như tiều phu chỉ bảo. Chờ ít lâu, cai phu trông thấy từ miệng hang bí mật, con rắn từ từ bò ra, đánh hơi nhìn tứ phía, rồi bò thẳng tới cái rổ mầu nhiệm, nhờ có con gà bên trên và thau nước phía dưới. Con rắn ngóc cổ, vươn mình phóng tới, cắn mạnh vào cổ con gà, ngậm cứng cho gà ngộp thở, rồi chui vào cánh, quấn mình mấy ngoai, riết chặt thân gà cho đến nhừ tử. Tiếng gà kêu vang nơi rừng thẳm, vang dậy cả Hầm Sen, giữa lúc hàng trăm phu phen đang cong lưng đập đá vá đường, đem mồ hôi nước mắt đổi lấy chén cơm bát cháo! Lúc bấy giờ, mặt trời đã ngả về tây, ánh vàng xuyên qua những đám mây xanh xám, treo lững lờ trên những ngọn cây bao trùm đèo Hải Vân hùng vĩ. Trong cảnh trí thiên nhiên huyền ảo đó, cai phu chăm chú nhìn thấy con rắn, lúc sắp sửa nuốt trọng con gà, đã tự nhiên phun ra viên ngọc vào rổ, rồi viên ngọc đó lọt rổ, rơi xuống thau nước, óng ánh lung linh như có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Cai phu lập tức vác gậy đuổi đập con rắn, khiến nó sợ hãi phải bò gấp vào Hầm Sen, chui vào hang biến mất. Và trong lúc hốt hoảng, rắn già đành bỏ lại viên ngọc quý.
 
Cai phu mừng rỡ như đã trúng số độc đắc, anh ta giải nghệ trở về làng với viên Ngọc Rắn. Viên ngọc này to bằng quả nhãn, màu thanh thiên, trong sáng tuyệt vời và phát quang trong đêm tối. Nó lại còn có công hiệu chữa trị những người bị rắn độc cắn. Chỉ cần áp viên ngọc nơi chỗ rắn cắn là nó hút hết chất độc, hút hết máu đen cho tới khi nào thấy màu hồng chảy ra thì mới rút viên ngọc. Nhờ viên ngọc quý, cai phu đã cứu được không biết bao nhiêu mạng người.
  
Thân sinh tôi kể chuyện ngọc rắn như sau:
 

Đông Y Sĩ Trung Quốc - Công Dã Tràng là người đầu tiên đã khám phá tính chất kỳ diệu của Ngọc Rắn. Thuở ấy, y sĩ họ Công có nuôi một cặp rắn hổ. Một hôm thừa cơ rắn đực đi vắng, rắn cái gian dâm với con rắn đực ở gần đó. Tình cờ Công Dã Tràng nhìn thấy, ông tức giận, bèn lấy cây rượt đánh con rắn lăng loàn. Rắn đực đi đâu nãy giờ, vừa bò về trông thấy gia sự đau xót như vậy, bèn ngỏ ý cảm tạ Công Dã Tràng, bằng cách nhả viên ngọc quý trong miệng ra, tặng ông ta và dặn như sau: "Đại nhân hãy giữ kỹ viên ngọc này nó sẽ giúp ông cấp cứu thiên hạ, nếu chẳng may họ bị rắn độc cắn. Đại nhân cứ áp viên ngọc vào nơi thương tích, là nó sẽ hút hết chất độc. Ngọc này không phải rắn nào cũng có, phải có sự tu luyện lâu năm, ngọc mới kết tụ trong miệng. Vì thân hình rắn trơn tru, rắn chỉ biết dấu ngọc vào miệng mà thôi, như thế chẳng ai trông thấy cả. Nhưng mà có một điều bất tiện là: lúc ăn rắn phải nhả viên ngọc ra, ăn xong lại phải ngậm vào, giữ gìn cẩn thận như cái bùa hộ mệnh của rắn thần."
 
Bây giờ ta phải đánh dấu hỏi: Tại sao Công Dã Tràng đã hiểu thấu ngôn ngữ của loài vật như con rắn? Thì đây là câu trả lời. Theo Lê Quý Đôn viết trong Văn Đài Loại Ngữ, quyển 7, Thư Tịch Loại, gồm 107 điều nói về Kinh Sử Tử Tập, từ thời Xuân Thu Chiến Quốc cho đến các đời Đường Tống Nguyên Minh Thanh, và căn cứ sách Luận Ngữ của Đức Khổng Tử, thì Công Dã Tràng hiểu tiếng chim, nhà nghèo, không có việc làm, không lấy gì để ăn. Một hôm có con chim bay trên mái nhà, kêu rằng: "Cọp ăn thịt dê ở núi Nam Sơn, nên mau ra mà lấy về". Công Dã Tràng nghe lời chim gọi, chạy ra núi Nam Sơn quả nhiên bắt được dê bị cọp ăn; còn thừa. Khi người chủ mất dê đi tìm, theo vết tới nhà trông thấy sừng dê, cho là... Công Dã Tràng ăn trộm dê, bèn kiện lên quan. Vua nước Lỗ hạ lệnh đưa Công Dã Tràng giam vào ngục. Còn Khổng Tử thì một mực kêu oan cho Tràng mà cũng không được.
 
Ít lâu sau, chim sẻ lại kêu ở nhà ngục rằng: "Người nước Tề xâm lăng bờ cõi, nên mau ra đánh đuổi". Tràng bảo người cai ngục tâu việc ấy lên vua quan. Vua không tin nhưng rồi cũng đâm lo, bèn sai người đi ra biên thùy thám thính thì quả thấy quân Tề ồ ạt kéo tới thật. Vua bèn sai Công Dã Tràng đem quân đi đánh, đuổi được quân Tề. Vua bèn tha cho Công Dã Tràng và phong cho làm Đại Phu. Nhưng ông ta không nhận, vì ông ta nghĩ rằng: "Nhờ loài chim mà được tước lộc là một điều nhục". Tiết tháo vậy thay! Từ đó về sau, không ai học tiếng chim nữa. Nhưng ngày nay, có nhiều nhà khoa học lại bắt đầu học tiếng chim cá, thú vật, để hiểu biết thêm ngôn ngữ của loài vật.
  
Loài Bò Sát Trong Thần Thoại Việt Nam
 
Ngoài những con rắn ta thường trông thấy trên đất liền, thường có giống Thuồng Luồng dài năm bảy chục thước, chuyên sống nơi biển lớn, hồ rộng. Hồi đầu thế kỷ, có nhiều thủy thủ đã trông thấy thuồng luồng nơi Vịnh Hạ Long, nơi quần đảo Bạch Long Vĩ. Họ chỉ trông thấy cái đuôi (vĩ) mà cũng đã dài lắm rồi. Lại có người trong thấy con thuồng luồng xuất hiện vài phen nơi hồ Lock Ness, bên xứ Scotland. Con quái vật này (le monstre de Lock Ness) trải qua nhiều thế kỷ, đã làm cho người ta mất khá nhiều thời giờ để rình ngó, nó cũng làm cho văn nhân, sử gia tốn công viết lách tìm tòi.
 
Riêng về dân tộc chúng ta vốn thuộc loài Giao Chỉ. Danh từ kép nầy có nhiều nghĩa: Ngón chân cái tách ra, lúc đứng xếp chân gần nhau thì thấy hai ngón chân cái giao đầu với nhau. Lại thêm một nghĩa nữa là: Bờ nuớc có thuồng luồng, cá sấu, loại sauriens như dinosaur, plésiosaures, diplocdocus v.v... thời tiền sử sinh sống. Đó là hai ý nghĩa chính, còn nhiều cách giải thích khác nữa không thể nói hết được.
 
Ngày xưa, giao long và thuồng luồng tranh nhau mà sống khắp sông hồ và duyên hải Nam Hoa và Bắc Việt. Do đó mà Hàn Dũ đời Đường (768-823) và Hàn Thuyên đời Trần Thái Tông (1225-1257) đã được lệnh nhà vua làm bài văn tế cá sấu, để đập đuổi cá sấu đang nhiễu hại dân chài lưới, đi ra khỏi sông Phú Lương, tức là sông Hồng Hà ngày nay. Theo nhà văn Roger Caillois, con rồng phát xuất từ con Giao Long mà ông dịch là Alligator, một giống bò sát (reptile) có nhiều liên hệ với nước mây mưa gió. Ắt hẳn con Giao Long là vật tổ của người Giao Chỉ, một sắc dân sống miền duyên hải, chuyên sống về nghề chài lưới và có tục lệ xâm mình, vẽ hình rồng rắn, khiến cho giống thuồng luồng, cá sấu phải nể nang khiếp sợ mà tránh né, hoặc được xem như là đồng loại để đừng giết hại lẫn nhau.
 
Tục lệ xâm mình này đã có từ ngàn xưa vì sách Sử Ký của Tư Mã Thiên đời Hán đã từng ghi "Tiễn phát, văn thân, thác ti, tả nhậm": Cắt tóc ngắn, vẽ mình, vòng tay (cung kính), cài nút áo phía trái. Ấy là bốn đặc tính của dân Việt Giao Chỉ. Tục lệ đã chấm dứt đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) anh ruột Công chúa Huyền Trân, và cũng là người đầu tiên đã dám cãi lệnh vua cha, nhất định không chịu xâm mình. Đó là một ông vua có óc tiến bộ, đã dám quên gốc chài lưới của tổ tiên, để mạnh dạn tiến vào thời kỳ nông nghiệp phồn thịnh của dân ta. Hơn nữa, việc cống hiến ngọc trai, san hô (coral) cho vua Tàu không còn ràng buộcchặt chẽ như xưa, và từ đó dân chài của ta không còn phải lặn lội dưới biển sâu để mò trai kiếm ngọc.
 
Xem như trên, các loài rồng rắn, thuồng luồng, cá sấu có nhiều điểm tương đồng, mà cũng có nhiều điểm dị biệt: Rồng có bốn chân, không có cánh mà vẫn bay được lên tận mây xanh, Thuồng luồng không chân và dài như con chình khổng lồ, có thể lật thuyền như chơi; Cá sấu da dầy, răng như cưa, mắt trợn... trông thấy mà kinh; Rắn không chân, bò sát đất, nhưng khéo tu thì có ngọc! Hầu hết rồng rắn dị hình, dị tướng, đều mang nặng tính chất kỳ bí và thần thoại, do óc quan sát tinh vi và trí tưởng phong phú của loài người.
 
Hương Giang Thái Văn Kiểm
 ________
 

Ghi chú:
 
(1) Cũng có giả thuyết: Người vợ thứ tư của Nguyễn Trãi, tên là Phạm Thị Mận, đang đi chợ, nghe tin dữ, vội vã bồng con trai, trốn sang nước Bồn Man (Lào), về sau lại trở về dưới thời Vua Lê Thánh Tông. Người con trai tên là Anh Vũ, học giỏi, đỗ đạt làm quan to, được vua cử đi sứ sang Trung Quốc. Lúc đi thuyền trên hồ Động Đình thì bị một con thuồng luồng ví chận, muốn làm lật thuyền. Anh Vũ biết con rắn này là hiện thân của Thị Lộ, bèn cầm dao nhảy xuống hồ đánh và giết được rắn, máu trồi lên đỏ cả hồ, rồi Anh Vũ cũng biến đi đâu mất! Từ đó về sau thì hồ êm sóng lặng, dân chúng đi lại bình an.
 
==========
 
Source: Tuần Báo Dân Việt (Sydney, Australia) , số Xuân Tân Tỵ - 2001
http://quangduc.com/xuan/32namty.html
 

Nối Mạch Vào Xuân





Nối mạch vào Xuân - một giao kết tuyệt vời của tình bạn online.
Hòa nhịp với đất trời đang luân chuyển dòng nắng ấm chảy tràn vào nguồn nhựa cây sau mùa Đông giá lạnh. Giục mầm non vươn lên trỗ lá, khoe hoa. Khởi đầu cho chu kỳ sinh thái mới của một năm - Mùa Xuân rực rỡ và hy vọng.
Tình bạn online - sự tiếp giao tuyệt đẹp của những tấm lòng trong không gian  Net suốt hai chiều xuôi ngược  quá khứ và tương lai, cũng chuyển vào hôm nay sự nồng ấm của tình bạn chân thành trên các  diễn đàn. Nơi mà mỗi ngày, mỗi phút giây, những tấm lòng thân thương gặp gỡ, chào hỏi. Chung chia cùng nhau những vui buồn đang có, những cảm nghĩ về xưa, những băn khoăn trên đường đi tới, với muôn vàn sắc hương của ngôn từ và âm điệu.
Trên màn hình sinh động của Net, tưởng chừng mình nghe từng nhịp thở của nhau, mỗi tiếng cười và lời nói đều dự phần vào cuộc sống chung riêng của mỗi thành viên trong một đại gia đình với tình thần tương kính và thân ái. Thậm chí còn thủ thỉ những riêng tư của đời mình với bạn như một người thân tình ruột thịt, giúp nhau vượt qua những khó khăn trong cuộc sống đời thường đầy lo toan vất vả. Mong một ngày êm ả trôi qua với mình, với bạn, với những anh chị em từ những góc trời xa.
Thế là vui, là phấn khích, tình thân mến tiếp sức đôi chân hăm hở vào đời trên con đường Xuân Mới, với hoa lá xanh tươi trên vạn lối đi, về. Theo tiếng chim hát rộn rã chào Xuân để thấy tấm lòng mình theo đất trời rộng mở.
Chừng như mọi người muốn gởi cho nhau những lời chúc chân thành nhất với niềm hy vọng tương lai đẹp hơn trên không gian mà bạn ta đang thật sự cất bước vào Xuân .

Cầu mong tất cả mãi bình yên
dẫu mặt đất còn chao nghiêng lắm nỗi
hãy giữ lấy tin yêu mà đi tới
với tiếng cười tươi rói giữa lòng nhau

giữ thắm thiết nơi hai đầu nỗi nhớ
như ngàn hoa rực rỡ dưới trời Xuân
nối mạch online cùng muôn điểm hẹn
trên hành trình đang có bạn một bên

và như thế, Xuân giữa đời vĩnh viễn
có nắng hồng trên vạn lối ta đi
những tiếng hát khua rộn trời và biển
khi Đông Tây Nam Bắc nối vòng tay

xin cầu chúc bạn hiền đang nối mạch
Mạnh Khỏe An Vui Thân Ái Tuyệt Vời
Xuân đang tới, bạn ơi Xuân đang tới
Yêu Thương người Hạnh Phúc sẽ nhân đôi.

Cao Nguyên

Đông Bắc Mỹ Feb 7, 2013