
Năm Rồng vừa chấm dứt thì năm   Rắn liền tới với chúng ta. Cảnh tượng quen thuộc ngày xưa vẫn còn lai   vãng tâm trí mọi người:
Rồng chầu ngoài Huế
Ngựa tế Đồng Nai,
Nước sông trong chảy lộn sông ngoài
Thương người xa xứ lạc loài tới đây,
Tới đây thì ở lại đây
Bao giờ bén rễ xanh cây sẽ về!
Rồng xanh,   rồng vàng tạm lánh mình trong thời gian 12 năm, nhường chỗ cho rắn với   năm Tân Tị khởi đầu ngày Nguyên Đán, mồng một tháng Giêng, tức là ngày   24.1.2001. Chúng ta biết rằng Âm lịch khai dung từ năm 2,637 trước Kitô,   nhằm năm 61 đời Hoàng đế bên Trung Quốc. Như vậy Âm lịch đã xuất hiện   cách đây: 2,637 năm cộng 2001, vị chi: 4,638 năm. Năm nay, 2001 thuộc   vào "Vận niên lục giáp" thứ 78, khởi đầu từ năm 1984 và sẽ chấm dứt vào   năm 2,043. Biết rằng mỗi giáp trên nguyên tắc chỉ có 10 năm mà thôi (chẳng   phải là 12 năm), thì lục giáp là 10 x 6 = 60 năm, tức là một thế kỷ của   Lịch đại Á Đông. Chu kỳ 60 năm này, người Tây phương gọi là Cycle   sexagésimal. Chu kỳ này luôn luôn khởi đầu với năm Giáp Tý, cho nên   quyển lịch chính thức của ta, được gọi là Hoàng Việt Giáp Tý Niên Biểu,   do cụ Nguyễn Bá Trác, Quan Lộc Tự Khanh, Tá Lý Bộ Học (Huế) biên soạn,   và do Bộ Học ấn hành năm Khải Định thập niên, tam nguyệt nhựt (1925).
Nếu đại   chu kỳ là 60 năm, thì tiểu chu kỳ là 12 năm, khởi đầu với năm Tý, mà   biểu tượng là Chuột. Chu kỳ này, Tây Phương gọi là Cycle duodénaire.   Trong một đại chu kỳ 60 năm, có năm tiểu chu kỳ 12 năm (12 x 5 = 60),   biết rằng 60 là tối thiểu bội số chung của 10 và 12 (10 là phần Giáp (Thập   can), còn 12 là phần Tý (Thập nhị chi).
  Những Điều Nên Biết Về Loài Rắn
Nói tới   loài Rắn, chúng ta phải chia ra hai loại: rắn hiền và rắn dữ. Cả hai đều   thuộc ngành Bò sát (Raptiles), họ Ophidiens. Rắn hiền như rắn nước, rắn   học trò... bơi lội thong thả nơi hồ ao, kiếm ăn tôm cá, ếch nhái. Loại   rắn này dễ lầm lẫn với giống lươn (anguille), mà chúng ta tìm thấy trong   câu đối lạ lùng, lửng lơ và lắt léo sau đây:
Le lội lung lăng lay lá lách
Lươn lo lòn lỏi lọt lùm lau.
Trong loài   rắn dữ, tức là rắn độc, chúng ta không khỏi rùng mình khi nhắc tới: rắn   hổ mà Tây phương gọi là Cobra, Naja tripudians, rắn hổ mang mà họ gọi là   Bongare, Bungarus fasciatus, rắn lục mà họ gọi là Serpent vert, Serpent   bananier, Trimeresurus, rắn đẻn mà họ gọi là Vipere lachesis... Nhưng mà   con rắn dễ sợ và nguy hiểm nhất, dài tới 4 thước, là con Ophiophagus   elaps, hay là Naja hamadryas, sinh sản khá nhiều bên Ấn Độ. Rắn này có   khả năng rượt theo người để cắn chết. Nhà văn Maurice Maindron có nói   tới giống rắn này trong quyển tiểu thuyết La Gardienne de I' Idole   Noire. Tuy thế, cũng con rắn đó đã tự ý quấn thân nhiều vòng, để làm   thành một cái bệ cao, chịu cho Đức Phật an tọa lên trên, mà tham thiền   nhập định, tránh cho Ngài khỏi bị bệnh tê thấp và đồng thời tỏ ra sự quy   thuận hoàn toàn đối với thần lực vô lường của Ngài.
  Rắn Trong Lịch Sử Việt Nam
Trong lịch   sử ta có biết bao nhiêu là truyện rắn. Chúng ta chỉ nhắc lại một truyện    điển hình nhất là Thị Lộ mà người đương thời cho là hiện thân của loài   rắn độc, có thể toát lược như sau:
Năm Nhâm   Tuất (1442), vua Lê Thái Tông (con vua Lê Lợi) đi tuần du phương đông,   duyệt võ ở Chí Linh. Nguyễn Trãi lúc bấy giờ đã về trí sĩ tại Côn Sơn,   bèn ra nghênh tiếp xa giá nhà vua. Lê Thái Tông bèn đến viếng chùa Côn   Sơn là nơi có ẩn am của Nguyễn Trãi. Nhìn thấy tì thiếp của Nguyễn Trãi   là Nguyễn Thị Lộ nhan sắc lộng lẫy, lại có biệt tài về văn chương, vua   Lê Thái Tông bèn phong cho chức Lễ Nghi Học Sĩ, ngày đêm hầu bên cạnh   nhà vua. Đến khi Đông tuần, xa giá về tới Trại Vải (Lệ Chi Viên), thuộc   xã Đại Lại, huyện Gia Định, nay là Gia Bình, thình lình nhà vua nhuốm   bệnh, lên cơn sốt dữ dội. Thị Lộ phải hầu hạ, thang thuốc suốt đêm, rồi   nhà vua băng hà. Các quan hốt hoảng, vội vã và bí mật phụng giá về Kinh,   nửa đêm vào cung mới làm lễ phát tang. Tất cả triều thần đều buộc tội   Thị Lộ đã âm mưu giết vua, liền đem nàng ra giết chết.
Có sách   nói rằng Thị Lộ đã bỏ thuốc độc vào chén cho vua uống. Có sách nói vua   bị cắn lưỡi mà chết. Riêng phần Nguyễn Trãi, ông chỉ nói rằng: "Nếu có   tội thì cứ chiếu pháp luật mà nghiêm trị".
Thảm trạng   này xảy ra đúng lúc trong triều có nhiều võ quan theo phe Lê Sát, sinh   lòng đố kỵ vì thấy ngày trước Nguyễn Trãi được Vua Lê Thái Tổ (Lê Lợi)   trọng dụng, đem lòng oán ghét, nhân cơ hội này, liền nghi Nguyễn Trãi là   chủ mưu sát đế. Thế là sau đó, quan Thừa Chỉ Nhập Nội Hành Khiển Đại   thần Nguyễn Trãi đã bị giết và cả ba họ bị tru di.
Truyền   thuyết cho rằng: lúc lập vườn tại Côn Sơn, lính hầu của Nguyễn Trãi đã   giết chết một ổ rắn gồm mấy mẹ con. Sau đó rắn mẹ tái sinh, bò lên trần   nhà nhìn Nguyễn Trãi đọc sách. Rắn nhỏ xuống một giọt máu đào, xuyên   thấm qua ba tờ giấy, nhằm ám chỉ là ba họ. Về sau, cũng con rắn đó đã   hiện thân nơi Thị Lộ làm ả bán chiếu gom ở Tây Hồ, gặp Nguyễn Trãi, có   xướng họa như sau:
Ả ở đâu, bán chiếu gom?
Chẳng hay chiếu đã hết hay còn?
Xuân xanh chừng độ bao nhiêu tuổi?
Đã có chồng chưa? Được mấy con?
  
Tôi ở Tây Hồ bán chiếu gom
Cớ chi ông hỏi hết hay còn?
Xuân xanh mới độ trăng tròn lẻ,
Chồng còn chưa có, hỏi chi con!
Sau đó thì   Thị Lộ đã trở thành tì thiếp của Nguyễn Trãi, nhập được gia đình ông ta,    để âm mưu phục thù, trả nợ máu ngày xưa là mấy mẹ con đã bị giết oan nơi   bụi rậm.
Cái án oan   này, mãi đến 22 năm sau, vua Lê Thánh Tông mới xét lại. Đó là vụ án lịch   sử Lệ Chi Viên. Vua thấy có nhiều điều hàm hồ, oan ức cho một đại công   thần khai quốc, liền truyền hủy bỏ bản án trước kia, truy phục chức cho   Nguyễn Trãi, tức Lê Trãi, con cháu ông được tìm kiếm và đưa ra làm quan,   lại cấp tư điền để con cháu lo việc tế tự hàng năm (1).
Sở dĩ vua   Lê Thánh Tông đã duyệt lại bản án là vì vợ nhà vua tên Nguyễn Thị Hằng   (1445-1505) là cháu gái 4 đời của bà Châu Thị, vợ nhất của Nguyễn Trãi,    đã trốn thoát được bản án tru di tam tộc 1442, chạy vào Nam Hà ẩn náu và   sinh sống. Bà Châu Thị đem theo được nhiều con, trong đó có Nguyễn Công   Duẫn, rồi Duẫn sinh ra Nguyễn Đức Trung, rồi Trung sinh ra Nguyễn Văn   Lãng, Lãng sinh ra Nguyễn Hoằng Dụ, Dụ sinh ra Nguyễn Hoằng Kim, tức là   Nguyễn Kim (1500-1545), Kim sinh ra Nguyễn Hoàng (1525-1613), tức là   chúa Tiên, chúa đầu tiên của nhà Nguyễn.
Như thế,    Nguyễn Kim là hậu duệ của Nguyễn Trãi. Còn hơn thế nữa, ông tổ xa xưa   của Nguyễn Trãi lẫn Nguyễn Kim là Nguyễn Bặc, khai quốc công thần đời   nhà Đinh và nhà Lý, từ thế kỷ XI. Ngoài ra gia phả của Nguyễn Du, tác   giả Kim Vân Kiều, cũng ghi dòng họ lên tới Nguyễn Bặc. Gần đây hơn trong   lịch sử cận đại, tiểu sử của đại thần Nguyễn Hữu Độ, Kinh lược Bắc Kỳ,    cũng có ghi là hậu duệ của Nguyễn Trãi. Chúng tôi căn cứ trên hai tài   liệu sau đây:
- Quyển Chrestomathie Annamite (Quảng Tập Viêm Văn) của Edmond Nordemann (Ngô Đề Mân), ấn hành ở Hà Nội năm 1898, trang 26-27.
 - Bài Les Familles Illustres de l' Annam: S.E.Nguyễn Hữu Độ của L.Sogny, đăng trong Bulletin des Amis du Vieux Hue, năm 1924, trang 169-204.
 
Còn như sự    kiện Nguyễn Du thuộc dòng họ Nguyễn Trãi thì các nhà văn học sử Dương Bá   Cung, Lê Thước, Bùi Văn Nguyên, căn cứ trên nhiều bổn gia phả họ Nguyễn    ở miền Bắc và miền Trung, đã xác nhận nhiều sự trùng hợp, mà nhà báo Cô   Thần đã đúc kết và nêu lên trong báo Tự Do số 1056, ấn hành ở Sài Gòn   ngày 22.11.1960, trang đầu: Công việc tra cứu của cụ Lê Thước cho biết   Nguyễn Trãi và Nguyễn Du cùng một dòng họ và chung một ông tổ. Ông tổ    này là Nguyễn Bặc, mà vua Bảo Đại cũng có nhận là ông tổ của mình, trong   quyển sách "Le Dragon d' Annam", Editions Plon, Paris 1980, trang 36-37.
  Rắn Trong Văn Học Sử Việt Nam
Trong văn   học sử của ta, mà cũng có liên hệ sử Tàu, chúng ta còn nhớ giai thoại bà    Đoàn Thị Điểm (sinh năm Ất Dậu 1705, mà người ta cho là tác giả Chinh   Phụ Ngâm, mà cũng có người cho là của Phan Huy Ích) đã đối đáp tài tình   với ông anh là Đoàn Doãn Luân. Một hôm ông này muốn thử tài cô em gái,   bèn lấy một câu chữ trong Sử Ký của Tư Mã Thiên nói về Lưu Bang (Hán Cao   Tổ) làm đề tài để cho bà đối đáp. Câu ấy như sau:
Bạch xà    đương đạo, Quý bạt kiếm nhi trảm chi
Nghĩa là   con rắn trắng đón đường, ông Quý (Lưu Bang) liền rút gươm ra chém (con   rắn bị đứt làm hai khúc, chết liền).
Bà Đoàn   Thị Điểm nhanh trí, cũng dùng một câu trong Sử Ký đời vua Nghiêu Thuấn,   nói về ông Vũ (tức là vua Hạ Vũ, sau này nối ngôi vua Thuấn, để đối lại   như sau:
Hoàng   Long phụ châu, Vũ ngưỡng thiên nhi thán viết
Nghĩa là:   Con Rồng vàng đội chiếc thuyền, ông Vũ nhìn trời mà than!
Cũng trong   Văn học sử của ta, Lê Quý Đôn (1726-1784) đã sáng tác một bài thơ thất   ngôn bát cú trong một trường hợp khá ly kỳ như sau: Thuở nhỏ, cậu bé Lê   Danh Phương (tên đầu tiên của Lê Quý Đôn) rất cứng đầu (rắn đầu) và   biếng học. Cha Phương quở trách, ông phải làm một bài thơ "Rắn Đầu" để    tạ tội, với điều kiện mỗi câu trong bài bát cú phải có một tên rắn.   Phương vâng lời và đọc ngay như một thần đồng:
Chẳng phải liu điu vẫn giống nhà
Rắn đầu biếng học, chẳng ai tha
Thẹn đèn hổ lửa đau lòng mẹ,
Nay thét mai gầm rát cổ cha.
Ráo mép chỉ quen tuồng nói dối,
Lằn lưng cam chịu vết roi tra.
Từ nay Trâu Lỗ chăm nghề học.
Kẻo hổ mang danh tiếng thế gia.
Đặc điểm   của bài thơ này là: nếu ta bỏ hai chữ ở đầu mỗi câu, ta sẽ được một bài   Ngũ ngôn bát cú:
Liu điu vẫn giống nhà
Biếng học, chẳng ai tha
Hổ lửa đau lòng mẹ,
Mai gầm rát cổ cha.
Chỉ quen tuồng nói dối,
Cam chịu vết roi tra.
Trâu Lỗ chăm nghề học.
Mang danh tiếng thế gia.
Xin lưu ý:   Nước Lỗ là quê quán Đức Khổng Tử mà thiên hạ gọi là Vạn Thế Sư Biểu, hay   là Sinh Dân Vị Hữu, nghĩa là từ khi có loài người thì chưa có ai (bằng   ông ta)! Còn nước Trâu là quê hương của Thầy Mạnh Tử. Tôi còn nhớ một   câu xướng độc đáo:
Nước lỗ    trâu chảy ra Khổng Mạnh
Nghĩa là:   Dòng nước nhỏ từ lỗ chân trâu ra thì không có (khổng) mạnh mẽ.
Câu này   khó quá chưa ai đối được cả!
Đã nhắc   tới Bảng Nhỡn Lê Quý Đôn (tục danh Lê Danh Phương), tự là Doãn Hậu, hiệu   là Quế Đường, sinh ra trong niên hiệu Bảo Thái thứ 7 (1726), đời vua Lê   Dụ Tông, thời chúa Trịnh Cương ở xã Diên Hà, tỉnh Sơn Nam (nay là tỉnh   Thái Bình), con của ông Lê Phú Thứ và bà họ Trương. Thân sinh đã từng đỗ    Tiến sĩ năm 1724 và làm quan đến chức Hình Bộ Thượng Thư. Thuở bé Lê   Danh Phương đã nổi tiếng thần đồng về trí thông minh và óc nhớ dai: Hai   tuổi đã biết đọc chữ "Hữu" là có, và "Vô" là không. Năm tuổi đã đọc   nhiều thiên trong Kinh Thi. Mười một tuổi đã học Sử (Sử Ký của Tư Mã   Thiên, Bắc Sử, Nam Sử v.v...), học thuộc lòng tám chín chục trang, đồng   thời học luôn cả Kinh Dịch. Mười bốn tuổi học hết Ngũ Kinh, Tứ Thư, sử    truyện và sách vở của Bách Gia Chư Tử, mỗi ngày có thể cảm tác mười bài   phú mà không cần viết nháp.
  Ngọc Rắn Trong Nhân Gian
Người ta   thường nói về Nọc Rắn của loài rắn độc, ít ai nói tới Ngọc Rắn. Đây là   một câu chuyện có thực ở nước ta. Chúng ta hãy trở về Đèo Hải Vân thời   tiền chiến, để nghe một người ở địa phương kể như sau:
Thời đó   người ta đang xây con đường xe lửa Xuyên Đông Dương, gọi là   Transindochinois. Thật ra là Xuyên Việt, vì nước mình rộng lớn và quan   trọng, tiêu biểu cho cả hai nước Lào Miên. Chặng đường thứ nhất: từ Hà   Nội tới Vinh, chặng đường thứ hai: từ Vinh tới Huế, chặng thứ ba từ Huế    vào Đà Nẵng. Chặng này công phu và khó khăn nhất, vì núi non hiểm trở.    Đà Nẵng ngày xưa mang tên Thạc Gián, tên làng xã chính của thị xã. Thạc   Gián viết nhầm và đọc nhầm là Tu Gián, vì hai chữ Thạc và Tu viết gần   như giống nhau. Từ đó, qua sự vụng về và biên chép của các người biên   chép và thông ngôn thời Pháp xâm chiếm nước Nam, mà địa danh viết nhầm   là Tu Gián đã trở thành Tourane. Còn địa danh Đà Nẵng thì bắt nguồn từ    chữ Đà, một thổ âm có nghĩa là Sông, suối. Ví dụ: Đà Rằng ở Phú Yên, Đà   Lạt ở cao nguyên. Suối của bộ lạc Lạt Tiếng Chiêm Thành là Ea (Da), cũng   có nghĩa là sông là nước. Ví dụ như Ea Trang (Nha Trang) là con sông tre,   con sông trên bờ có mọc nhiều tre (Krưm), chữ Krưm đọc trại thành Trang.
Trở lại   vùng Đà Nẵng, ta lấy quốc lộ 1, trèo đèo Hải Vân quan, đi xuống làng An   Cư (Lăng Cô), đi ngang qua Truồi, lần tới Phú Bài, Thần Phù, Dạ Lê,   Thanh Thủy, An Cựu, rồi tới Huế, đường dài 110 cây số, đúng 1 độ (degré)   của Bắc Vĩ tuyến. Đường này quanh co, lúc làm đường xe lửa, phải đục tới   ba bốn cái hầm trong núi cao, trong đó có hai cái hầm dài và hiểm trở    nhất là Hầm Sen và Hầm Chuối.
Dân địa   phương có câu ví ngôn:
Túi   thui như chui vào Hầm Sen
Và hai câu   hò để than thân trách phận:
Chiều chiều gió thổi Hải Vân
Chim kêu ghềnh đá, gẫm thân em buồn!
Hay:
Chiều hôm dắt mẹ qua đèo,
Chim kêu bên nớ, vượn trèo bên ni!
Thời tiền   chiến, có một người cai phu lục lộ, trong lúc đi tuần dọc đường rầy, lúc   sắp chui vào Hầm Sen thì chợt thấy lóa mắt bởi nhiều tia ánh sáng. Dụi   mắt để nhìn lại lần nữa thì thấy ánh sáng này nhúc nhích và chuyển động.   Cai phu liền bật đèn pin rọi thì nhìn thấy luồng ánh sáng đó tỏa ra từ    miệng con rắn dài ba thước, đương bò ngang qua đường rầy. Cai phu nhìn   kỹ thì thấy con rắn ngậm một hòn ngọc sáng chói. Thấy người và ánh đèn,   con rắn liền bò nhanh chui vào Hầm Sen biến mất. Tình cờ một tiều phu   già đi ngang qua đây, cai phu kể chuyện lại thì được tiều phu chỉ về    cách thức lấy được ngọc rắn. Tiều phu bảo phải bắt một con gà, cột nó   vào cái rổ lật ngửa, rồi đặt cái rổ đó lên trên một thau nước và cột   chặt gà, rổ và thau nước lại với nhau, làm thế nào thau không bị lật đổ.    Xong rồi, cứ việc ngồi rình đừng để cho rắn thần trông thấy.
Cai phu y   theo, làm đúng như tiều phu chỉ bảo. Chờ ít lâu, cai phu trông thấy từ    miệng hang bí mật, con rắn từ từ bò ra, đánh hơi nhìn tứ phía, rồi bò   thẳng tới cái rổ mầu nhiệm, nhờ có con gà bên trên và thau nước phía   dưới. Con rắn ngóc cổ, vươn mình phóng tới, cắn mạnh vào cổ con gà, ngậm   cứng cho gà ngộp thở, rồi chui vào cánh, quấn mình mấy ngoai, riết chặt   thân gà cho đến nhừ tử. Tiếng gà kêu vang nơi rừng thẳm, vang dậy cả Hầm   Sen, giữa lúc hàng trăm phu phen đang cong lưng đập đá vá đường, đem mồ    hôi nước mắt đổi lấy chén cơm bát cháo! Lúc bấy giờ, mặt trời đã ngả về    tây, ánh vàng xuyên qua những đám mây xanh xám, treo lững lờ trên những   ngọn cây bao trùm đèo Hải Vân hùng vĩ. Trong cảnh trí thiên nhiên huyền    ảo đó, cai phu chăm chú nhìn thấy con rắn, lúc sắp sửa nuốt trọng con gà,    đã tự nhiên phun ra viên ngọc vào rổ, rồi viên ngọc đó lọt rổ, rơi xuống   thau nước, óng ánh lung linh như có ánh sáng mặt trời chiếu vào. Cai phu   lập tức vác gậy đuổi đập con rắn, khiến nó sợ hãi phải bò gấp vào Hầm   Sen, chui vào hang biến mất. Và trong lúc hốt hoảng, rắn già đành bỏ lại   viên ngọc quý.
Cai phu   mừng rỡ như đã trúng số độc đắc, anh ta giải nghệ trở về làng với viên   Ngọc Rắn. Viên ngọc này to bằng quả nhãn, màu thanh thiên, trong sáng   tuyệt vời và phát quang trong đêm tối. Nó lại còn có công hiệu chữa trị    những người bị rắn độc cắn. Chỉ cần áp viên ngọc nơi chỗ rắn cắn là nó   hút hết chất độc, hút hết máu đen cho tới khi nào thấy màu hồng chảy ra   thì mới rút viên ngọc. Nhờ viên ngọc quý, cai phu đã cứu được không biết   bao nhiêu mạng người.
Thân sinh   tôi kể chuyện ngọc rắn như sau:
Đông Y Sĩ Trung Quốc - Công Dã Tràng là người đầu   tiên đã khám phá tính chất kỳ diệu của Ngọc Rắn. Thuở ấy, y sĩ họ Công   có nuôi một cặp rắn hổ. Một hôm thừa cơ rắn đực đi vắng, rắn cái gian   dâm với con rắn đực ở gần đó. Tình cờ Công Dã Tràng nhìn thấy, ông tức   giận, bèn lấy cây rượt đánh con rắn lăng loàn. Rắn đực đi đâu nãy giờ,    vừa bò về trông thấy gia sự đau xót như vậy, bèn ngỏ ý cảm tạ Công Dã   Tràng, bằng cách nhả viên ngọc quý trong miệng ra, tặng ông ta và dặn   như sau: "Đại nhân hãy giữ kỹ viên ngọc này nó sẽ giúp ông cấp cứu   thiên hạ, nếu chẳng may họ bị rắn độc cắn. Đại nhân cứ áp viên ngọc vào   nơi thương tích, là nó sẽ hút hết chất độc. Ngọc này không phải rắn nào   cũng có, phải có sự tu luyện lâu năm, ngọc mới kết tụ trong miệng. Vì   thân hình rắn trơn tru, rắn chỉ biết dấu ngọc vào miệng mà thôi, như thế    chẳng ai trông thấy cả. Nhưng mà có một điều bất tiện là: lúc ăn rắn   phải nhả viên ngọc ra, ăn xong lại phải ngậm vào, giữ gìn cẩn thận như    cái bùa hộ mệnh của rắn thần."
Bây giờ ta   phải đánh dấu hỏi: Tại sao Công Dã Tràng đã hiểu thấu ngôn ngữ của loài   vật như con rắn? Thì đây là câu trả lời. Theo Lê Quý Đôn viết trong Văn    Đài Loại Ngữ, quyển 7, Thư Tịch Loại, gồm 107 điều nói về Kinh Sử Tử Tập,   từ thời Xuân Thu Chiến Quốc cho đến các đời Đường Tống Nguyên Minh Thanh,   và căn cứ sách Luận Ngữ của Đức Khổng Tử, thì Công Dã Tràng hiểu tiếng   chim, nhà nghèo, không có việc làm, không lấy gì để ăn. Một hôm có con   chim bay trên mái nhà, kêu rằng: "Cọp ăn thịt dê ở núi Nam Sơn, nên mau   ra mà lấy về". Công Dã Tràng nghe lời chim gọi, chạy ra núi Nam Sơn quả    nhiên bắt được dê bị cọp ăn; còn thừa. Khi người chủ mất dê đi tìm, theo   vết tới nhà trông thấy sừng dê, cho là... Công Dã Tràng ăn trộm dê, bèn   kiện lên quan. Vua nước Lỗ hạ lệnh đưa Công Dã Tràng giam vào ngục. Còn   Khổng Tử thì một mực kêu oan cho Tràng mà cũng không được.
Ít lâu sau,   chim sẻ lại kêu ở nhà ngục rằng: "Người nước Tề xâm lăng bờ cõi, nên mau   ra đánh đuổi". Tràng bảo người cai ngục tâu việc ấy lên vua quan. Vua   không tin nhưng rồi cũng đâm lo, bèn sai người đi ra biên thùy thám   thính thì quả thấy quân Tề ồ ạt kéo tới thật. Vua bèn sai Công Dã Tràng    đem quân đi đánh, đuổi được quân Tề. Vua bèn tha cho Công Dã Tràng và   phong cho làm Đại Phu. Nhưng ông ta không nhận, vì ông ta nghĩ rằng: "Nhờ    loài chim mà được tước lộc là một điều nhục". Tiết tháo vậy thay! Từ đó   về sau, không ai học tiếng chim nữa. Nhưng ngày nay, có nhiều nhà khoa   học lại bắt đầu học tiếng chim cá, thú vật, để hiểu biết thêm ngôn ngữ    của loài vật.
  Loài Bò Sát Trong Thần Thoại Việt Nam
Ngoài   những con rắn ta thường trông thấy trên đất liền, thường có giống Thuồng   Luồng dài năm bảy chục thước, chuyên sống nơi biển lớn, hồ rộng. Hồi đầu   thế kỷ, có nhiều thủy thủ đã trông thấy thuồng luồng nơi Vịnh Hạ Long,   nơi quần đảo Bạch Long Vĩ. Họ chỉ trông thấy cái đuôi (vĩ) mà cũng đã   dài lắm rồi. Lại có người trong thấy con thuồng luồng xuất hiện vài phen   nơi hồ Lock Ness, bên xứ Scotland. Con quái vật này (le monstre de Lock   Ness) trải qua nhiều thế kỷ, đã làm cho người ta mất khá nhiều thời giờ   để rình ngó, nó cũng làm cho văn nhân, sử gia tốn công viết lách tìm tòi.
Riêng về    dân tộc chúng ta vốn thuộc loài Giao Chỉ. Danh từ kép nầy có nhiều nghĩa:   Ngón chân cái tách ra, lúc đứng xếp chân gần nhau thì thấy hai ngón chân   cái giao đầu với nhau. Lại thêm một nghĩa nữa là: Bờ nuớc có thuồng   luồng, cá sấu, loại sauriens như dinosaur, plésiosaures, diplocdocus v.v...   thời tiền sử sinh sống. Đó là hai ý nghĩa chính, còn nhiều cách giải   thích khác nữa không thể nói hết được.
Ngày xưa,   giao long và thuồng luồng tranh nhau mà sống khắp sông hồ và duyên hải   Nam Hoa và Bắc Việt. Do đó mà Hàn Dũ đời Đường (768-823) và Hàn Thuyên    đời Trần Thái Tông (1225-1257) đã được lệnh nhà vua làm bài văn tế cá   sấu, để đập đuổi cá sấu đang nhiễu hại dân chài lưới, đi ra khỏi sông   Phú Lương, tức là sông Hồng Hà ngày nay. Theo nhà văn Roger Caillois,   con rồng phát xuất từ con Giao Long mà ông dịch là Alligator, một giống   bò sát (reptile) có nhiều liên hệ với nước mây mưa gió. Ắt hẳn con Giao   Long là vật tổ của người Giao Chỉ, một sắc dân sống miền duyên hải,   chuyên sống về nghề chài lưới và có tục lệ xâm mình, vẽ hình rồng rắn,   khiến cho giống thuồng luồng, cá sấu phải nể nang khiếp sợ mà tránh né,   hoặc được xem như là đồng loại để đừng giết hại lẫn nhau.
Tục lệ xâm   mình này đã có từ ngàn xưa vì sách Sử Ký của Tư Mã Thiên đời Hán đã từng   ghi "Tiễn phát, văn thân, thác ti, tả nhậm": Cắt tóc ngắn, vẽ mình, vòng   tay (cung kính), cài nút áo phía trái. Ấy là bốn đặc tính của dân Việt   Giao Chỉ. Tục lệ đã chấm dứt đời vua Trần Anh Tông (1293-1314) anh ruột   Công chúa Huyền Trân, và cũng là người đầu tiên đã dám cãi lệnh vua cha,   nhất định không chịu xâm mình. Đó là một ông vua có óc tiến bộ, đã dám   quên gốc chài lưới của tổ tiên, để mạnh dạn tiến vào thời kỳ nông nghiệp   phồn thịnh của dân ta. Hơn nữa, việc cống hiến ngọc trai, san hô (coral)   cho vua Tàu không còn ràng buộcchặt chẽ như xưa, và từ đó dân chài của   ta không còn phải lặn lội dưới biển sâu để mò trai kiếm ngọc.
Xem như    trên, các loài rồng rắn, thuồng luồng, cá sấu có nhiều điểm tương đồng,   mà cũng có nhiều điểm dị biệt: Rồng có bốn chân, không có cánh mà vẫn   bay được lên tận mây xanh, Thuồng luồng không chân và dài như con chình   khổng lồ, có thể lật thuyền như chơi; Cá sấu da dầy, răng như cưa, mắt   trợn... trông thấy mà kinh; Rắn không chân, bò sát đất, nhưng khéo tu   thì có ngọc! Hầu hết rồng rắn dị hình, dị tướng, đều mang nặng tính chất   kỳ bí và thần thoại, do óc quan sát tinh vi và trí tưởng phong phú của   loài người.
Hương Giang Thái Văn Kiểm
 ________
Ghi chú:
(1) Cũng có giả thuyết: Người vợ thứ tư của Nguyễn   Trãi, tên là Phạm Thị Mận, đang đi chợ, nghe tin dữ, vội vã bồng con   trai, trốn sang nước Bồn Man (Lào), về sau lại trở về dưới thời Vua Lê   Thánh Tông. Người con trai tên là Anh Vũ, học giỏi, đỗ đạt làm quan to,    được vua cử đi sứ sang Trung Quốc. Lúc đi thuyền trên hồ Động Đình thì   bị một con thuồng luồng ví chận, muốn làm lật thuyền. Anh Vũ biết con   rắn này là hiện thân của Thị Lộ, bèn cầm dao nhảy xuống hồ đánh và giết    được rắn, máu trồi lên đỏ cả hồ, rồi Anh Vũ cũng biến đi đâu mất! Từ đó   về sau thì hồ êm sóng lặng, dân chúng đi lại bình an.
==========
Source: Tuần Báo Dân Việt   (Sydney,   Australia) , số Xuân Tân Tỵ - 2001
http://quangduc.com/xuan/32namty.html
  
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét