Thứ Tư, 24 tháng 4, 2019

Thành quả đấu tranh của Người Việt Quốc Gia


1/ Thành quả đấu tranh của Người Việt Quốc Gia: Thượng Viện California thông qua Nghị Quyết SCR 7 ‘Black April-Tưởng Niệm Tháng Tư Đen’ 2019  


SACRAMENTO, California (NV) – Nghị Quyết SCR 7 “Black April-Tưởng Niệm Tháng Tư Đen” do Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg là đồng tác giả với Dân Biểu Tom Daly và Dân Biểu Tyler Diệp vừa được Thượng Viện California đồng thuận tuyệt đối 36/0 của các thượng nghị sĩ.
Thông cáo báo chí của văn phòng Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg cho biết, bản Nghị Quyết SCR 7 mang nội dung tưởng niệm 44 năm ngày Sài Gòn thất thủ và quy định Tháng Tư, 2019, là “Black April-Tưởng Niệm Tháng Tư Đen,” một thời gian đặc biệt để người dân California nhớ về vô số sinh mạng đã nằm xuống trong thời kỳ chiến tranh Việt Nam, hướng đến công lý và tự do hơn cho người dân tại Việt Nam.
Cũng theo bản thông cáo này, ngày 30 Tháng Tư, 2019, đánh dấu 44 năm Sài Gòn, thủ đô của nước Việt Nam Cộng Hòa, thất thủ vào tay Cộng Sản. Trong nhiều năm ngay sau ngày 30 Tháng Tư, 1975, hơn 135,000 người Việt Nam và gia đình họ đã phải vượt thoát đến Hoa Kỳ, bao gồm cựu quân nhân Việt Nam Cộng Hòa, nhân viên chính phủ, và những người làm việc cho chính phủ Hoa Kỳ trong thời kỳ chiến tranh.
“Chiến tranh Việt Nam đã là một thảm họa không chỉ cho đất nước Việt Nam, cho những người lính trực tiếp tham gia cuộc chiến, mà nó còn là cả một sự mất mát đau thương của biết bao người dân thường đã phải bỏ mình trên biển cả khi trên đường vượt thoát địa ngục Cộng Sản tìm đến bến bờ tự do,” Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg được trích lời nói. “Tôi rất vinh dự được đại diện cho Địa Hạt 34, nơi cư ngụ của một cộng đồng Việt Nam đông đảo và mạnh mẽ. Cùng với các cộng đồng người Việt tị nạn ở khắp các tiểu bang, họ đã nhanh chóng trở thành phần tử quan trọng tiếp tục đóng góp cho đời sống thịnh vượng và sự phát triển phong phú về mọi mặt trên đất nước Hoa Kỳ.”
“Điều quan trọng là chúng ta không bao giờ quên thảm kịch ‘Black April-Tháng Tư Đen’ này và nhận thức được mối quan tâm hàng đầu hiện nay của những người Mỹ gốc Việt – nhân quyền, tự do tôn giáo, dân chủ và đấu tranh chống lại nguy cơ đất nước Việt Nam bị xâm lược,” Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg được trích lời.
Thượng Nghị Sĩ Tom Umberg đại diện Địa Hạt 34 bao gồm các thành phố Anaheim, Fountain Valley, Huntington Beach, Garden Grove, Long Beach, Los Alamitos, Midway City, Orange, Santa Ana, Seal Beach, và Westminster. Ông là một đại tá đã về hưu thuộc Lục Quân Hoa Kỳ, cựu công tố viên liên bang, và chủ doanh nghiệp nhỏ. Ông và phu nhân, chuẩn tướng (ret.) Robin Umberg cư ngụ tại thành phố Santa Ana. (TS) 

Designating April 30, in 2013 and in each succeeding year, as South Vietnamese Recognition Day in Virginia.
Agreed to by the Senate, February 21, 2013
Agreed to by the House of Delegates, February 22, 2013
WHEREAS, South Vietnamese Americans, a proud, industrious people, make up the fourth-largest group of Asian Americans in the United States; and
WHEREAS, a South Vietnamese mass immigration to the United States began when communist tyranny swept the former Republic of Vietnam after the fall of Saigon in 1975; and
WHEREAS, to the very end, soldiers of the Army of the Republic of Vietnam (ARVN) fought valiantly, defending their freedom with skill, daring, and gallantry; the ARVN 3rd Cavalry Regiment, for example, demonstrated such skill and heroism in battle that it was awarded the coveted United States Presidential Unit Citation; and
WHEREAS, nearly 60,000 American fighters died in the Vietnam War and some 224,000 South Vietnamese troops also fell defending their nation; and
WHEREAS, although the American sacrifice in Vietnam was enormous, some of the most bitter combat—including the savage warfare after the United States’ withdrawal—was shouldered principally by our South Vietnamese allies; and
WHEREAS, the 1968 communist Tet Offensive was designed to crack South Vietnam’s will to resist, instead, South Vietnamese forces fought ferociously, and not a single unit collapsed or ran; indeed, even the police fought, turning pistols against heavily armed enemy regulars; and
WHEREAS, together with American soldiers, sailors, airmen, and Marines, the ARVN decimated the indigenous Viet Cong guerrillas, eliminating them as an effective fighting force for the remainder of the war; and
WHEREAS, most American units had left Vietnam by 1972, yet South Vietnamese units continued to perform remarkably well; with limited American help, they defeated North Vietnam’s all-out Easter Offensive, a massive conventional invasion led by Soviet T-54 tanks; and
WHEREAS, the Easter Offensive victory helped force North Vietnam to accept a negotiated end to the war; and
WHEREAS, sadly, in 1974 the United States withdrew most military support, including air power, severely restricting the flow of fuel and munitions to the ARVN; strangled by a lack of supplies, tanks and artillery pieces were allotted meager quantities of ammunition—sometimes just a few shells per day—and radios often had no batteries; and
WHEREAS, the strangulation of South Vietnamese supply lines destroyed morale and decimated combat power, making it impossible for even the bravest South Vietnamese troops to effectively defend against the final invasion by North Vietnamese soldiers; North Vietnam remained well-supplied by its communist allies in China and the Soviet Union; and
WHEREAS, everyone with ties to the Americans or the government of the Republic of Vietnam feared the threatened communist reprisals; as communist forces overran the South during the spring of 1975, 125,000 key South Vietnamese personnel were airlifted from South Vietnam to refugee centers in the United States; and
WHEREAS, as American troops and embassy staff were evacuated by waiting aircraft, terrified South Vietnamese mothers thrust their babies into the hands of complete strangers, hoping their offspring might somehow survive the approaching bloodbath; and
WHEREAS, the promised reign of terror quickly emerged and the South Vietnamese desperately fled the murderous tyranny of the communists; roughly two million South Vietnamese fled to escape North Vietnam’s promised “people’s paradise”; and
WHEREAS, launching small, crowded sampans, many South Vietnamese sailed into the vast, treacherous waters of the South China Sea, where hundreds of thousands drowned in the escape attempt; the South Vietnamese continued to flee their country in huge numbers from 1975 until the mid-1980's; and
WHEREAS, beginning in 1975 and for decades afterwards, well over one million South Vietnamese—especially former military officers and government employees—were imprisoned in communist concentration camps; these were euphemistically called “reeducation camps,” where many thousands of South Vietnamese were “educated” to their deaths; and
WHEREAS, the communist concentration camps were characterized by brutal forced labor, political indoctrination, and deadly assignments like human mine clearing; there were no formal charges or trials; and
WHEREAS, the conditions in the camps were so savage that many surviving inmates estimate that almost a third of the prisoners of war died while in captivity; and
WHEREAS, South Vietnamese immigration to the United States peaked in 1992 when, after decades of torture, many concentration camp survivors were finally released and sponsored by their families to come to this country; and
WHEREAS, after persevering through unimaginable brutality and suffering, the South Vietnamese who escaped their homeland demonstrated admirable talent and intellect; they became an entrepreneurial, upwardly mobile group, whose poverty rate rapidly declined after their arrival in the United States; and
WHEREAS, today, 82 percent of the South Vietnamese in the United States are native-born or naturalized citizens, an exceptionally high portion of American citizenship for any immigrant group; and
WHEREAS, for several decades, South Vietnamese American patriots have contributed to the United States with intellect, skill, loyalty, and determination; many have served proudly in the Armed Forces of the United States; now, therefore, be it
RESOLVED by the Senate, the House of Delegates concurring, That the General Assembly designate April 30, in 2013 and in each succeeding year, as South Vietnamese Recognition Day in Virginia; and, be it
RESOLVED FURTHER, That the Clerk of the Senate transmit a copy of this resolution to the Virginia Asian Chamber of Commerce and the National Congress of Vietnamese Americans so that the members of these organizations may be apprised of the sense of the General Assembly of Virginia in this matter; and, be it
RESOLVED FINALLY, That the Clerk of the Senate post the designation of this day on the General Assembly’s website. 

**
2 / Nghị quyết J.R455 Lưỡng viện Quốc Hội Virginia Vinh danh VNCH 
 

NGHỊ-QUYẾT LƯỠNG VIỆN DO THƯỢNG-VIỆN KHỞI XƯỚNG SỐ 455
  
Chỉ-định ngày 30/4 năm 2013 và những năm kế-tiếp,
là Ngày Công NhậnNam Việt Nam ở Virginia
Được Thượng-viện đồng-thanh chấp thuận ngày 21/2/2013
Được Hạ-viện đồng-thanh chấp thuận ngày 22/2/2013

XÉT VÌ, những người Mỹ gốc Nam Việt Nam, một dân-tộc oai hùng và cần mẫn, hiện là nhóm người Mỹ gốc Á lớn thứ tư trên đất Mỹ; và

XÉT VÌ, một cuộc di-cư vĩ-đại của người Việt miền Nam đã sang Hoa-kỳ khi bạo-quyền cộng-sản chiếm xong Việt-nam Cộng-hòa sau ngày Sài-gòn thất thủ vào năm 1975; và

XÉT VÌ, cho đến phút chót, những binh sĩ trong Quân-lực VNCH đã kiên-cường chiến-đấu để bảo-vệ nền tự do của họ một cách tài-tình, táo-bạo và can-đảm, như trường-hợp Lữ-đoàn III Kỵ-binh QLVNCH đã chứng-minh sự dũng-cảm và tài-nghệ trong chiến-đấu đến độ được lãnh Huy-chương của Tổng-thống Hoa-kỳ dành cho một đơn-vị; và

XÉT VÌ, gần 60 nghìn chiến-sĩ Hoa-kỳ đã hy-sinh trong Chiến-tranh VN và 224 nghìn binh sĩ QLVNCH đã nằm xuống để bảo-vệ quốc gia của họ; và

XÉT VÌ, mặc dầu sự hy-sinh của người Mỹ rất to lớn ở VN, một số trận chiến khắc nghiệt nhất–kể cả cuộc chiến dã-man sau khi Hoa-kỳ đã rút khỏi VN–đã được gánh vác chủ-yếu bởi các đồng-minh Nam Việt Nam của chúng ta; và

XÉT VÌ, cuộc Tổng-công-kích Tết Mậu-thân 1968 của CS là nhằm bẻ gãy ý-chí chống lại CS của quân dân Miền Nam, Quân-lực VNCH đã chống trả quyết-liệt, và không một đơn-vị nào bỏ chạy hay tan hàng; thật vậy, đến ngay cảnh-sát cũng hăng say chiến-đấu, dùng súng lục chống lại quân chính-quy của địch được võ-trang đầy đủ; và

XÉT VÌ, cùng với bộ-binh, thủy-quân, không-quân, và TQLC Hoa-kỳ, Quân-lực VNCH đã tận-diệt bộ-đội du-kích của Việt-Cộng, loại-trừ hẳn thành-phần này ra như một binh-đội còn có khả-năng chiến-đấu trong phần còn lại của cuộc chiến; và

XÉT VÌ, hầu hết các đơn-vị chiến-đấu của Hoa-kỳ đã rời VN vào năm 1972, các đơn-vị QLVNCH đã tiếp-tục chiến-đấu rất hào-hùng chỉ với một sự giúp đỡ tối-thiểu của Mỹ, đánh bại cuộc Tổng-công-kích Mùa Hè Đỏ Lửa năm ấy, một cuộc xâm-lăng quy-mô và quy-ước trên toàn miền, có chiến-xa T-54 của Liên-Xô dẫn đường; và

XÉT VÌ, chính chiến-thắng của QLVNCH vào Mùa Hè Đỏ Lửa đã buộc Bắc-Việt phải chấp nhận kết-thúc chiến-tranh qua thương thảo; và
XÉT VÌ, tiếc thay, vào năm 1974 Hoa-kỳ đã rút cầu bằng cách giảm gần hết yểm-trợ quân-sự, kể cả không-lực, cắt nghiêm-trọng việc cung-cấp dầu xăng và đạn-dược cho Quân-lực VNCH–giờ đây bị bóp nghẹt bởi thiếu hết quân-trang quân-cụ trong khi chiến-xa và pháo-đài chỉ được phát một số-lượng rất nhỏ đầu đạn, có khi xuống đến vài quả trong một ngày, thậm chí đến các bộ truyền tin cũng không cả có pin để xử dụng; và
XÉT VÌ, việc thắt chặt các đường dây tiếp-tế cho Quân-lực VNCH đã làm suy sụp tinh-thần và khả-năng chiến-đấu của họ, làm cho việc chiến-đấu hữu hiệu của ngay những đơn-vị can trường nhất của Miền Nam cũng không thể thực-hiện được trước cuộc xâm-lăng chót của quân Bắc-Việt, vào lúc đó vẫn được cung-cấp đầy đủ bởi đồng-minh Trung-Cộng và Liên-Xô của họ; và

XÉT VÌ, bởi tất cả mọi người có liên-hệ với Mỹ hay chính-quyền VNCH rất lo ngại về viễn-ảnh trả thù tệ-hại của CS nên vào phút chót, trong khi quân-đội CS tràn xuống miền Nam vào mùa Xuân năm 1975, 125 nghìn nhân-viên then chốt của VNCH đã được không-vận từ Miền Nam sang các trại tỵ nạn ở Hoa-kỳ; và

XÉT VÌ, ngay trong lúc binh lính Mỹ và nhân-viên Sứ-quán Hoa-kỳ được trực-thăng đến đón thì có những bà mẹ VN kinh hãi ném ngay con mình vào tay những người hoàn-toàn xa lạ, chỉ để mong làm sao cho con mình thoát được cảnh tắm máu sắp xảy ra; và
XÉT VÌ, chế-độ kinh-hoàng xuất hiện gần như tức-khắc nên người Việt miền Nam đã trong tuyệt-vọng trốn chạy bạo-quyền sát sinh CS, đưa đến khoảng 2 triệu người đã tìm cách trốn khỏi “thiên-đường nhân-dân” do CS Bắc-Việt hứa hẹn; và

XÉT VÌ, đi bằng những con thuyền mỏng manh, chặt nứt, rất nhiều người miền Nam đã liều lĩnh ra khơi, đi vào sóng gió bão táp của Biển Đông, đem lại cái chết của hàng trăm ngàn người bị lật thuyền, chìm xuống đáy đại-dương; mặc dầu vậy, những con số khổng-lồ người Việt miền Nam vẫn tiếp-tục ra đi từ năm 1975 đến giữa thập niên 1980; và

XÉT VÌ, cũng bắt đầu từ 1975 và kéo dài hàng thập niên sau đó, hơn một triệu người miền Nam–đặc-biệt là các cựu-sĩ-quan và công-chức chính-phủ–bị đưa vào các trại tập trung mà được gọi một cách hiền lành là các trại “học tập cải tạo,” nơi đó nhiều ngàn người đã bị “cải tạo” đến chết luôn; và

XÉT VÌ, những trại tập trung của CS được nổi tiếng qua các chế-độ khổ-sai tàn-bạo, nhồi sọ về chính-trị, và những nhiệm-vụ chết người như đi chân đất dò mìn, không hề qua những thủ-tục cáo buộc tội-trạng hay xét xử trước tòa án; và

XÉT VÌ, những điều-kiện trong trại tệ hại đến mức nhiều người sống sót cho rằng gần một phần ba các tù-binh đã chết trong thời-gian bị cầm tù; và

XÉT VÌ, con số di-cư của người Việt miền Nam sang Hoa-kỳ lên tới đỉnh-điểm vào năm 1992 khi, sau hàng thập niên bị tra tấn, nhiều người sống sót từ các trại tập trung nói trên cuối cùng mới được thả ra và bảo trợ bởi gia-đình họ sang xứ này; và

XÉT VÌ, sau khi chịu cực-hình qua nhiều năm khổ đau và ngược-đãi không thể tưởng-tượng nổi, những người miền Nam đã trốn được khỏi quê hương đã tỏ ra tài-năng và thông minh vượt bực để trở thành một nhóm người dám vào thương-trường và tìm đường thăng-tiến, giải-quyết chóng vánh những bước đầu nghèo khó sau khi đến Hoa-kỳ; và

XÉT VÌ, ngày nay, 82 phần trăm người Việt miền Nam có mặt ở Hoa-kỳ là những người sinh trưởng ở đây hay là người đã có quốc-tịch Hoa-kỳ, một tỷ-lệ rất cao trong mọi nhóm di-dân có quốc-tịch; và

XÉT VÌ, qua nhiều thập niên, những người Mỹ yêu nước gốc Nam Việt Nam này đã đóng góp đáng kể vào nước Mỹ với trí-tuệ, tài-năng, quyết-tâm và lòng trung-thành của họ, với không ít con em đang phục-vụ một cách hãnh-diện trong Quân-lực Hoa-kỳ; do đó, 

Thượng-viện QUYẾT-NGHỊ, với sự đồng-thuận của Hạ-viện,
Là Đại-nghị-viện Virginia sẽ lấy ngày 30 tháng Tư 2013 và cùng ngày này trong những năm kế-tiếp, làm Ngày Công Nhận Nam Việt Nam ở Virginia; và
QUYẾT-NGHỊ TIẾP,
Là Thư-ký Thượng-viện chuyển một bản của Nghị-quyết này tới Hiệp-hội Thương mại Á-châu ở Virginia và Nghị-hội Toàn-quốc Người Việt tại Hoa-kỳ đặng cho những thành-viên của hai tổ-chức này được biết về quyết-định của Đại-nghị-viện Virginia về vấn-đề này; và
CUỐI CÙNG QUYẾT-NGHỊ,
Là Thư-ký Thượng-viện đưa việc chỉ-định ngày này lên Trang Nhà Điện Tử của Đại-nghị-viện Virginia.

Nguyễn Ngọc Bích dịch
Springfield, VA


@@

3/  H. RES. 309

Recognizing the 44th anniversary of the Fall of Saigon on April 30, 1975.

IN THE HOUSE OF REPRESENTATIVES
April 10, 2019
Mr. Lowenthal (for himself, Mr. Johnson of Georgia, Mr. Correa, Mrs. Davis of California, Mr. Khanna, Mr. Cisneros, Ms. Lee of California, Mr. Rouda, and Ms. Lofgren) submitted the following resolution; which was referred to the Committee on Foreign Affairs, and in addition to the Committee on Armed Services, for a period to be subsequently determined by the Speaker, in each case for consideration of such provisions as fall within the jurisdiction of the committee concerned

RESOLUTION
Recognizing the 44th anniversary of the Fall of Saigon on April 30, 1975.

Whereas since 1975, hundreds of thousands of Vietnamese have resettled in the United States and built vibrant communities across the United States which contribute to the rich diversity of the Nation;

Whereas, on April 30, 1975, the Republic of Vietnam was overthrown by communist forces in an event known as "Black April" or the "Fall of Saigon", which is observed in Vietnamese American communities across the United States each year;

Whereas members of the South Vietnamese military fought side-by-side with the United States Armed Forces in defense of the ideals of democracy and freedom;

Whereas Vietnamese Americans have continuously advocated for freedom and democracy in Vietnam, and spoken out against human rights abuses by the Vietnamese Government; and

Whereas Vietnam continues to hold one of the worst records on human rights in the region, violating religious freedom, obstructing press freedom, restricting its own citizens' freedom of speech and assembly, and detaining prisoners of conscience: Now, therefore, be it

Resolved, That the House of Representatives-

(1) recognizes the significance of the 44th anniversary of the Fall of Saigon on April 30, 1975;

(2) honors the contributions of Vietnamese Americans to the United States over the last 44 years and their tireless commitment to upholding freedom, human rights, and democracy in Vietnam;

(3) honors the service of members of the United States Armed Forces and of the South Vietnamese forces who fought in Vietnam, including those who gave their lives;

(4) honors the memory of the Vietnamese who lost their lives while attempting to flee Vietnam; and

(5) encourages all citizens of the United States to join in remembering the Fall of Saigon, honoring the contributions of the Vietnamese American community, and calling for freedom, human rights, and democracy in Vietnam. 

**

Bản Dịch Nghị Quyết H.Res.309

H. RES. 309

Công Nhận Kỷ Niệm 44 Năm Sài Gòn Thất Thủ Ngày 30 Tháng 4, 1975.

Xét rằng, từ năm 1975 hằng trăm ngàn người Việt đã đến định cư tại Hoa Kỳ và đã  xây dựng  những cộng đồng sinh động vững mạnh trên khắp nước Mỹ góp phần vào sự đa dạng cuả đất nước;

Xét rằng, vào ngày 30 tháng 4,1975, Việt Nam Cộng Hoà lọt vào tay cộng sản trong một biến cố được gọi là “Tháng Tư Đen” hay “Sài Gòn Thất Thủ”.  Biến cố này đã và đang được Cộng Đồng Người Mỹ Gốc Việt trên khắp Hoa Kỳ tưởng niệm hàng năm;

Xét rằng, Quân Lực Việt Nam Cộng Hoà đã từng chiến đấu sát cánh với quân đội Hoa Kỳ trong cuộc chiến nhằm bảo vệ lý tưởng tự do dân chủ;

Xét rằng, cộng đồng người Mỹ gốc Việt vẫn tiếp tục ủng hộ cho một nước Việt Nam tự do dân chủ và chống lại việc vi phạm nhân quyền cuả nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay;

Xét rằng, Nhà cầm quyền Việt Nam hiện nay vẫn vi phạm nhân quyền trầm trọng như xâm phạm quyền tự do tôn giáo, quyền tự do báo chí, quyền tự do ngôn luận và quyền tự do hội họp cuả người dân, đồng thời bắt bớ, giam cầm các tù nhân lương tâm: 

Vì thế, nay, Hạ Viện Hoa Kỳ quyết định:
(1) Lễ tưởng niệm ngày 30 tháng 4 lần thứ 44 là sự kiện quan trọng tại Hoa Kỳ;

(2) Vinh danh sự đóng góp của người Mỹ gốc Việt cho đất nước Hoa Kỳ trong suốt 44 năm qua cùng sự quyết tâm bền bỉ đòi hỏi một nước Việt Nam có tự do, dân chủ và nhân quyền;

(3) Vinh danh các quân nhân quân đội Hoa Kỳ và quân lực Việt Nam Cộng Hoà đã từng chiến đấu và những người đã hy sinh trong cuộc chiến;

(4) Vinh danh và tưởng nhớ những người Việt Nam đã bỏ mình trên đường đi tìm tự do;

(5) Kêu gọi mọi công dân Hoa Kỳ cùng nhau tưởng niệm ngày 30 tháng 4 và vinh danh những đóng góp cuả cộng đồng người Mỹ gốc Việt cùng khát vọng cuả họ cho một nước Việt Nam tự do, dân chủ và nhân quyền .

Thứ Hai, 1 tháng 4, 2019

Cưỡi Ngọn Sấm




Lời Tựa
Cuốn sách“Cưỡi Ngọn Sấm” đã lột tả được tinh thần và lòng quyết tâm của một nhóm “huynh đệ chi binh” khác thường – một toán nhỏ cố vấn Thủy Quân Lục Chiến Hoa Kỳ và các chiến binh TQLC VNCH bạn trong một tình hình đặc biệt khó khăn của cuộc chiến Việt Nam.
Richard Botkin đã ghi chép lại những chiến công của các TQLC Hoa Kỳ và bạn đồng minh VNCH đã lãnh trách nhiệm chính trong công cuộc đẩy lui cuộc xâm lược của Bắc quân tại địa đầu miền Nam Việt Nam, được biết đến như là cuộc Tổng tấn công mùa Phục Sinh (mùa hè đỏ lửa) 1972 đối với người Tây phương, một cuộc tấn công nhằm đánh gục một quốc gia.
Mặc dù tất cả những ai hiện diện tại nơi đó không ít thì nhiều đều có dính dáng đến những trận đánh khốc liệt trong những chuyến công vụ trước và những hành vi anh hùng và chỉ huy dũng cảm xảy ra khắp nơi, nhưng Botkin đã chú trọng vào ba nhân vật chính.
Trung tá Gerry Turley, người đã hiện diện trong vùng hai ngày trước cuộc tấn công để tiến hành một cuộc viếng thăm tưởng chừng như thường lệ trong một thời kỳ yên lắng. Hoàn cảnh và một loạt các yếu tố bất thường đã đưa đẩy ông lên một vai trò chỉ huy đặc biệt trong đời. Ông đã phải đối mặt với toan tính hủy diệt của bọn Bắc quân ngoan cố cũng như các trở ngại của bộ máy quan liêu của quân đội Hoa Kỳ và VNCH đã không đánh giá đúng sự suy xét của ông lúc ban đầu.
Ngoại trừ đối với những người đã quen thuộc với những câu chuyện về hành động của Đại úy Ripley tại cây cầu Đông Hà, rất khó mà không xác nhận cao tác động chiến lược của sự phá hủy cây cầu đó đối với những trận đánh còn lại tại Việt Nam sau buổi chiều Chủ nhật mùa Phục Sinh năm ấy.
Botkin làm nổi bật cho độc giả thấy mối liên quan đặc biệt giữa các cố vấn TQLC Hoa Kỳ đối với các TQLC Việt Nam mà họ đã phục vụ. Mối dây chân tình huynh đệ và tình bạn chân thành giữa Đại úy Ripley và Thiếu tá Lê Bá Bình, lúc đó đang chỉ huy bẩy trăm binh lính thuộc Tiểu đoàn 3 TQLC, đối diện với hơn hai chục ngàn quân Bắc Việt lăm le tiêu diệt họ tại Đông Hà, đã thăng hoa vượt lên trên cả ngôn ngữ và văn hóa khác biệt. Câu chuyện của hai người chiến binh vĩ đại cùng phục vụ cho một mục đích chung thật là hiển nhiên. Nếu đã có thêm nhiều người như Lê Bá Bình thì chắc chắn kết quả của cuộc chiến đã khác hẳn.
Khác với hầu hết các cuốn sách về thể loại này, Botkin đã theo dõi thật chi tiết cuộc sống gia đình của từng chiến binh và kể lại chiến sự qua trải nghiệm cá nhân của họ. Trong lúc nghiên cứu về lịch sử của chiến tranh người ta rất thường chỉ tập trung vào người lính chiến, do đó chỉ diễn tả nổi một nửa câu chuyện mà thôi.
Với tư cách một người đã từng tham dự những trận giao tranh tại đó, đã chứng kiến nhiều cuộc thử thách được ghi chép lại trong khoảng thời kỳ đặc biệt dữ dội lúc đó, tôi vẫn không mường tượng nổi những gì xảy ra cho bạn bè của chúng tôi sau khi phần tham chiến của người Mỹ đã kết thúc. Đối với các sĩ quan TQLC Việt Nam và gia đình họ, cơn ác mộng dường như bất tận của trại tù cải tạo mà Cộng sản đã chụp lên họ một cách tàn nhẫn từ sau tháng tư 1975, trong trường hợp của Lê Bá Bình là gần 12 năm trời, đã nói lên sự kiên trì, lòng nhẫn nại và niềm vinh quang của tinh thần con người.
Nước Mỹ đã có phước được những chiến binh như John Ripley và Gerry Turley phục vụ dưới cờ, nay lại còn may mắn gấp bội khi được kể thêm những người như Bình là công dân Hoa Kỳ. “Cưỡi Ngọn Sấm” là một cuốn sách hấp dẫn, ly kỳ rất đáng đọc, là một mảnh lịch sử chưa hề được nói đến bao giờ.
Chuẩn tướng James Joy TQLC Hoa Kỳ (hồi hưu)
Cố vấn trưởng cho Lữ đoàn 147 TQLC QLVNCH trong khoảng thời gian 1971-1972