Thứ Bảy, 18 tháng 6, 2016

BẢO QUỐC AN DÂN


TỪ HOÀNG DIỆU TỚI NHỮNG THẦN TƯỚNG
CỦA QUÂN LỰC VNCH
“Bảo quốc túy, tuyết quốc sỉ”
( Giử tinh hoa của nước, rửa nhục nước)
Danh dự của một người chiến sĩ là phần giá trị tinh thần từ sự ý thức và hoàn thành các trách nhiệm được giao phó đúng theo truyền thống nhân bản của Việt tộc của một người bảo vệ quê hương.. Được cầm súng bảo vệ quê hương và đồng bào của mình chính là danh dự, là đạo đức của người trai miền nam VN trong thời loạn ly. Nhìn lại lịch sử cổ đại đến cận đại của Đông hay Tây sử. Thì sự kiện ngày 30 tháng 4 năm 1975 của Việt Nam - chứng minh được một điều chưa có một quân đội của một quốc gia nào trên thế giới có số lượng tướng lãnh và binh sĩ tuẫn tiết theo lý tưởng nhiều như Quân Lực Việt Nam Cộng Hòa. Những cấp chỉ huy trong quân lực VNCH đã nếu cao danh dự của một cấp chỉ huy theo đúng truyền thống của quân đội Đại Việt. Họ là những Nguyễn Tri Phương-Hoàng Diệu oanh liệt dũng cảm hy sinh trong chiến đấu, thà chết chứ không đầu hàng giặc.
Bối cảnh của tháng tư đen 1975 không khác gì bối cảnh của Hoàng Diệu trong thời chống Pháp - Kho thuốc súng trong thành Hà Nội bị nổ trong khi địch đang tấn công, thiếu vũ khí sỉ khí quân giử thành xuống thấp, sau đó Hà Nội thất thủ trước hoả lực quá mạnh của quân thù. Ông Hoàng Diệu thắt cổ tự tử cho trọn danh dự của một tướng giử thành.
Quân lực VNCH, trong năm 1975 vũ khí đạn dược đều bị cắt giảm đến mức tối đa, trong hoàn cảnh đó không khác gì thành Hà Nội vào năm 1882, đạn dược không còn để cung ứng cho việc chiến đấu trước sư tấn công vũ bảo của giặc cướp nước. Thân phận VNCH đành theo vận nước mà mất vào tay quân xâm lược Bắc Việt. Trong hoàn cảnh đó người dân miền nam mới thấy được những tấm gương trung liệt của các thần tướng VNCH. Trước khi nói đến cá thần tướng VNCH, người viết xin được nhắc lại tấm gương của thần tướng Hoàng Diệu cách đây 128 năm.
HOÀNG DIỆU
Đầu năm 1882, lấy cớ Việt Nam không tôn trọng hiệp ước năm 1873 mà lại đi giao thiệp với Trung Hoa, dung túng quân Cờ Đen (một nhánh quân của Thái Bình Thiên Quốc) ngăn trở việc giao thông trên sông Hồng của người Pháp, Đại tá Henri Rivière của Hải quân Pháp cho tàu chiến cùng hơn 400 quân đóng trại tại Đồn Thủy (trên bờ bắc sông Hồng, cách thành Hà Nội 5 km) nhằm uy hiếp Hà Nội. Hoàng Diệu đã hạ lệnh giới nghiêm tại Hà Nội và bố cáo các tỉnh xung quanh sẵn sàng tác chiến.
Quân Pháp tấn công mạnh vào thành Hà Nội, rạng ngày 25 tháng 4 năm 1882, tức ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ, lúc 8 giờ 15. Rivière là chỉ huy của quân Pháp cùng với 4 tàu chiến là La Fanfare, La Massue, La Hache, La Surprise (tàu này không kịp tới, vì mắc cạn dọc đường Hải Phòng đi Hà Nội) bắn vào thành yểm trợ cho số quân 450 người và một ít thân binh đổ bộ hòng chiếm thành Hà Nội. Tướng Hoàng Diệu đã điều quân chống trả quyết liệt, quân Pháp bị thiệt hại nặng và phải rút ra ngoài tầm súng để củng cố lực lượng.
Nhưng trong lúc chiến sự diễn ra khốc liệt thì kho thuốc súng của Hà Nội nổ tung, do Việt gian mua chuộc bởi bọn Pháp làm. Một số nhà sử học còn đoán rằng nó liên quan tới phản thần Tôn Thất Bá. dẫn tới đám cháy lớn trong thành làm cho lòng quân hoang mang. Quân Pháp thừa cơ phá được cổng Tây thành Hà Nội và ùa vào thành. Bố chính Nguyễn Văn Tuyển, Đề đốc Lê Văn Trinh và các lãnh binh bỏ thành chạy.Trong tình thế tuyệt vọng, Hoàng Diệu vẫn tiếp tục bình tĩnh dẫn đầu quân sĩ chiến đấu chống lại quân Pháp dù lực lượng ngày càng yếu đi, không thể giữ được thành nữa. Cuối cùng, Hoàng Diệu đã ra lệnh cho tướng sỹ giải tán để tránh thương vong. Một mình Hoàng Diệu vào hành cung, thảo tờ di biểu, rồi ra trước Võ miếu dùng khăn bịt đầu thắt cổ tự tử, hưởng dương 54 tuổi.
Tướng Hoàng Diệu cắn ngón tay lấy máu viết di biểu tạ tội cho vua Tự Đức: "Thành mất không sao cứu được, thật hổ với nhân sĩ Bắc thành lúc sinh tiền. Thân chết có quản gì, nguyện xin theo Nguyễn Tri Phương xuống đất. Quân vương muôn dặm, huyết lệ đôi hàng". Cụ Tôn Thất Thuyết, một đại biểu nổi tiếng của sĩ phu kiên quyết chống Pháp đã ca ngợi ông trong hai câu đối:
Nhất tử thành danh, tự cổ anh hùng phi sở nguyện
Bình sanh trung nghĩa, đương niên đại cuộc khởi vô tâm
Dịch:
Một chết đã thành danh, đâu phải anh hùng từng nguyện trước
Bình sanh trung nghĩa, đương trường đại cuộc tất lưu tâm
Cụ Phó bảng Nguyễn Trọng Tỉnh có bài thơ điếu Hoàng Diệu, ghi lại trong Lịch sử vua quan nhà Nguyễn của Phạm Khắc Hòe như sau:
Tay đã cầm bút lại cầm binh
Muôn dặm giang sơn nặng một minh
Thờ chúa, chúa lo, lo với chúa
Giữ thành, thành mất, mất theo thành
Suối vàng ắt hẳn mài gươm bạc
Lòng đỏ thôi đành gửi sử xanh
Di biểu nay còn sôi chính khí
Khiến người thêm trọng bút khoa danh.
Vị quốc vong thân là tầng cao nhất của TỔ QUỐC-DANH DỰ- TRÁCH NHIỆM niềm hãnh diện và vinh dự cho cuộc đời của một người cầm súng. Danh dự đó chỉ thấy được nơi QL.VNCH: các thần tướng Lê Văn Hưng, Lê Nguyên Vỹ, Nguyễn Khoá Khoa Nam, Trần văn Hai, Phạm văn Phú, Trung Tá Nguyễn Văn Long....và vô số chiến sĩ các cấp đã tuẩn tiết bằng súng, bằng lựu đạn, bằng thuốc độc để bảo toàn khí tiết, danh dự của QL.VNCH. Tôi kính trọng họ, và luôn tưởng nhớ đến họ, nhất là khi mùa quốc hận 30.4.hay ngày quân lực 19/6 hàng năm lại về...
Trước các thần tướng VNCH, Thiếu tá Ngụy văn Thà, hạm trưởng HQ.10 đã từng dũng cãm viết lên hai chử danh dự cho QL.VNCH khi thân xác theo con tàu minh chỉ huy đi vào lòng đất mẹ vào ngày 19/1/1974.
Cộng quân cưỡng chiếm miền nam ngày 30.4.1975, người chiến sĩ QL.VNCH không ngừng chiến đấu tiếp tục để làm tròn trách nhiệm của minh trước tổ quốc, tuy nhiên các cố gắng đó vẩn chưa đạt được kết qủa mong muốn. Họ vẩn phải kiên trì đấu tranh tiếp tục để quang phục lại quê hương.
Theo đúng tinh thần của QL.VNCH là: "Tổ - Quốc - Danh Dự - Trách Nhiệm", nhiều chiến sĩ QL.VNCH sau ngày 30/4/1975 đã từ hải ngoại trỡ về nước, để cùng với các lực lượng người Việt tự do trong nước mưu cầu giải thể chế độ khát máu, buôn dân bán nước. Họ đã ra đi trong ngày 30/4/1975, nhưng trách nhiệm với tổ quốc vẩn luôn đè nặng trên vai của họ, nên họ đã gạt bỏ những cuộc sống an nhàn nơi quê hương tạm dung quay trở lâi VN, đó cũng là những tấm gương trung liệt của các chiến sĩ VNCH, hết lòng với tổ quốc VN. Cuộc chiến đấu hiện nay vẩn tiếp tục cho ngày quang phục quê hương. Chiến đấu vì một nước VN dân chủ tự do là Danh dự và đạo đức của những con người ưu tú trong QL.VNCH, họ đã nêu cao tấm gương trung liệt của một người quân nhân hết lòng với tổ quốc VNCH.
Cuộc chiến đã đi qua từ 41 năm qua nhưng âm vang còn lưu lại trong tâm khảm người Việt tỵ nạn lưu vong với nhiều cay đắng, uất hận về thực trạng phũ phàng của biến cố 30/471975, khi mà người đồng minh đã phản bội lại QL.VNCH. Niềm uất hận đó người ta tưởng như nó mới diễn ra ngày hôm quạ, quá khứ đau lòng ấy vẫn còn sống mãi trong ký ức họ, chưa bao giờ phai nhoà. Cho đến nay họ, những người chiến sĩ trong QL.VNCH vẩn âm thầm vá lại ngọn cờ vàng để phất lên trong ngày đất nước hoàn toàn tự do và dân chủ.
VÁ CỜ
"Cảm đề tác phẩm Vá Cờ của Nguyễn Ngọc Hạnh"

Đường chỉ thẳng, một đường gươm bén
Chém ngang đời vết chém như mơ
Vá tim tan tác như cờ
Vá hồn vị quốc chưa mờ linh quang
Vá hạo khí dọc ngang trời đất
Bốn ngàn năm bất khuất kiêu hùng
Trên cờ thấy núi thấy sông
Người vì nghĩa cả đã dâng hiến đời
Nhấm dòng máu còn tươi nỗi hận
Nghiêng mái đầu súng trận còn vang
Yêu người, yêu lá cờ vàng
Lệ thầm nuốt nghẹn từng hàng mỗi đêm
Đời chinh phụ thoắt chìm trong tối
Tình yêu quê réo gọi đầy lòng
Lửa tim hận nước, thù chồng
Lửa thiêng còn cháy bập bùng ngàn thu/.
(hahuyenchi)
Người viết xin dâng môt nén hương lòng để tưởng nhớ đến công đức của tiền nhân và các thân tướng QL.VNCH, dùng cái chết bảo toàn danh dự của một dũng tướng để không rơi vào tay giặc.

Hậu duệ VNCH Nguyễn Thi Hong 
16/6/2016

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét