GARDEN GROVE, California (NV) - Vào chiều Chủ Nhật, 15 Tháng Mười Hai, nhóm thực hiện tự điển Việt Nam tại hải ngoại có buổi ra mắt cuốn sách “Ðề Nghị Thống Nhất Cách Viết Chữ Quốc Ngữ” tại Thư Viện Việt Nam, Garden Grove.
Ðây là bước đầu tiên trong nỗ lực thực hiện một cuốn tự điển ngữ vựng Việt Nam tại hải ngoại của một nhóm trí thức, truyền thông, và những người thiết tha đến việc bảo tồn sự trong sáng của tiếng Việt tại hải ngoại .
Theo Giáo Sư Song Thuận, một trong những người chủ xướng công việc này, nhóm gồm có các vị như Giáo Sư Lưu Trung Khảo, Giáo Sư Trần Chấn Trí, Tiến Sĩ Phạm Kim Long, các vị đang phụ trách công việc giảng dậy tiếng Việt tại các trung tâm Việt Ngữ khắp nơi như Bùi Ðức Uyên, Ðặng Ngọc Sinh, Trần Việt Bắc, Trần Văn Giang và các nhà truyền thông như Bùi Bích Hà, Bích Huyền, Ngọc Loan, Song Thuận... Ngoài ra còn có các thiện nguyện viên ở khắp nơi trên thế giới đóng góp ý kiến qua những trang mạng của nhóm.
Viết về cuốn sách này, Giáo Sư Lưu Trung Khảo đề cập đến mục đích của việc thực hiện là “để bảo tồn và phát triển Việt ngữ của dân tộc Việt Nam chúng ta.”
Ông nhấn mạnh: “Ðó là một sinh ngữ vì nó còn đang được thêm vào hay bớt đi theo thời gian.”
Nhưng giáo sư cũng cho biết: “Loại ngôn ngữ dùng trên đường phố hay giữa những thành phần băng đảng mà ta thường thấy trong phim ảnh xã hội khác biệt với ngôn ngữ của các nhà truyền thông hay những nhà trí thức trong văn học.”
Ông cho biết tiếp: “Nhóm sẽ cố gắng tìm cách phát triển ngôn ngữ Việt Nam theo chiều hướng lành mạnh và trong sáng.”
Theo Giáo Sư Song Thuận, “Cuốn sách được ra mắt và phát hành hôm nay coi như là bước đầu góp phần vào việc truyền bá Việt ngữ trong sáng khắp năm châu và cũng là để hướng dẫn việc thực hiện cuốn 'Tự Ðiển Ngữ Vựng Việt Nam Tại Hải Ngoại.'”
Ðề cập đến ước nguyện của nhóm trong công việc khá khó khăn và phức tạp này, nhất là trong điều kiện “tự túc,” Giáo Sư Trần Chấn Trí, một trí thức trẻ đang giảng dạy tại một đại học lớn ở Nam California, cho biết: “Cuốn sách này sẽ được dùng chủ yếu để đối chiếu, đối với người Việt, học giả, nhà văn.”
Cuốn sách “Ðề Nghị Thống Nhất Cách Viết Chữ Quốc Ngữ” dầy gần 300 trang chứa đựng khá nhiều vấn đề về tiếng Việt hiện nay. Ðó là những trở ngại thông thường nhất lưu cữu từ nhiều thập niên trong ngôn ngữ và cách viết tiếng Việt khi sau cuộc di cư năm 1954 của gần 1 triệu người miền Bắc từ bỏ vùng đất cộng sản tạm chiếm sau Hiệp Ðịnh Geneva 1954 vào sống tại miền Nam.
Trở ngại thứ nhất là dấu hỏi ngã. Giọng miền Trung và nhất là miền Nam thường để sai dấu nếu theo giọng miền Bắc. Vần “tr” hay “ch” thì giọng miền Bắc lại sai nếu so với giọng Trung hay Nam. Vậy cái nào đúng khi mà Việt Nam chưa có được một hàn lâm viện để thống nhất ngôn ngữ, cách viết, phát âm.
Cũng đã có nhiều học giả trí thức miền Nam trước đây nghiên cứu và soạn thảo ra một số đề nghị, một số tự điển về ngữ vựng, nhưng hầu như chưa đáp ứng được kịp những thay đổi trong sinh hoạt biến thiên chính trị của miền Nam lúc bấy giờ.
Hiện nay, vào thời đại bùng nổ thông tin toàn cầu, tiếng Việt đã được làm giầu thêm cả về tư tưởng lẫn ngữ vựng. Nhưng vì để theo kịp cho đà phát triển thông tin, sự làm giàu ấy đã diễn ra khá vô tổ chức bởi chưa kịp “tiêu hóa” được. Rồi trong nước, dưới một chế độ chủ trương cải biến cả nền nếp văn hóa miền Nam đã tương đối ổn định và phát triển trước đó để thực hiện chủ trương “Trồng người cộng sản,” nên ngôn ngữ Việt Nam đã bị biến thể, bị áp đặt những phong cách phát âm, sử dụng từ ngữ mới.
Những chương trình đoàn tụ của Hoa Kỳ dành cho người Việt tị nạn Cộng Sản sau 30 Tháng Tư, 1975 đã đưa lớp người sống trong lòng chế độ cộng sản hàng chục năm, chịu khá sâu nặng ngôn ngữ “mới” ở trong nước, đã làm “u ám” tiếng Việt cho lớp trẻ sinh trưởng ở hải ngoại. Vấn đề có thể “không đáng quan tâm” với những ai thờ ơ với văn minh văn hóa của người Việt qua bao đời, nhưng với những ai thường quan tâm đến văn hóa Việt Nam, đến cội nguồn dân tộc Việt Nam, đến ngôn ngữ, văn học Việt Nam, thì “đó là cả vấn đề.”
Ngày những người Việt tị nạn đến Mỹ, ai cũng lo cho con em giỏi được tiếng Anh, nhưng chỉ sau chưa đầy một thập niên, hầu hết phụ huynh đều lại hết sức lo lắng vì con em đang xa dần, mất dần tiếng Việt. Nên phong trào học Việt ngữ, dạy Việt ngữ đã trở thành phong trào trong các cộng đồng người Việt dù có nơi chỉ có vài ba ngàn người.
Ðến nay thì một nhu cầu mới được phát sinh. Ðó là nhu cầu “Trong sáng và lành mạnh tiếng Việt,” nghĩa là làm sao cho các thế hệ người Việt sau này gìn giữ được tiếng Việt, cách nói cũng như cách viết như truyền thống của người Việt Nam vốn có từ thời lập quốc.
Cuốn sách đưa ra 5 quy ước căn bản, thứ nhất là về cách phát âm, thứ hai là cách đánh vần, thứ ba là cách viết hoa và phiên âm tên người, thứ tư là cách viết Y dài và I ngắn, thứ năm là vị trí đặt dấu trên chữ.
Cuốn sách còn có nhiều phần lý thú nữa như phần tài liệu đọc thêm trong đó có
“Bảng chính tả và biến âm, địa phương,” phần “Tiếng Việt nội địa và tiếng Việt hải ngoại, bảng đối chiếu,” phần “Tiếng Việt cùn.” Ðây là phần sưu tầm khá công phu của Trần Việt Bắc về cung cách “ăn nói” của những “con người mới Xã Hội Chủ Nghĩa.”
Nhìn chung, đây là một cuốn sách giá trị, vì tâm huyết của những người Việt còn lo lắng đến tương lai đất nước, dân tộc. Giá trị vì ít ra nó cũng có thể làm hướng dẫn viên cho tuổi trẻ Việt Nam hải ngoại, nhất là các bạn trẻ đang tham gia ngày một nhiều vào các ngành truyền thông, viết văn, làm thơ tiếng Việt.
––
Nguyên Huy/Người Việt
@ Lời Tựa Nước Việt Nam chưa có một Hàn Lâm Viện để quy định những chuẩn mực cho việc sử dụng chữ quốc ngữ. Trong Đại Hội Giáo Dục toàn quốc của nước Việt Nam Cộng Hoà được Bộ Quốc Gia Giáo Dục triệu tập vào năm 1958, Tiểu Ban Quốc Văn đã đề nghị dùng cuốn Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức làm khuôn thước cho chính tả học đường, tuy tiểu ban nhìn nhận rằng cuốn tự điển này vẫn còn khiếm khuyết. Từ ngày đó tới nay, đã có biết bao tự điển xuất bản ở trong nước và hải ngoại. Tuy nhiên vẫn chưa có cuốn tự điển nào có đủ tầm vóc để thay thế cuốn Việt Nam Tự Điển của Hội Khai Trí Tiến Đức (2/5/1919- 24/9/1945) xuất bản từ năm 1931 tại Hà Nội. Tính đến nay, tuổi thọ của cuốn Việt Nam Tự Điển đã được 82 năm. Sở dĩ Việt Nam Tự Điển được cả nước dùng trong một thời gian dài như vậy là bởi đây là một cuốn tự điển có giá trị, được soạn thảo bởi các nhà cổ học lẫn tân học rất có uy tín. Ban Biên Soạn gồm có: Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Bùi Kỷ, Trần Trọng Kim, Nguyễn Văn Luận, Dương Bá Trạc, Nguyễn Hữu Tiến, Nguyễn Đôn Phục, Phạm Huy Lục, Đỗ Thận. Sách dầy 663 trang. Nhà xuất bản Trung Bắc Tân Văn đã chia sách ra và in làm 4 tập, mỗi tập dầy khoảng 160 trang dễ cho độc giả góp ý sửa chữa hoàn chỉnh rồi mới cho in toàn tập. Từ 1931 tới nay, đất nước đã trải qua biết bao biến thiên về chính trị cũng như về văn học. Hết Pháp đến Nhật, hết Nhật đến Tàu Tưởng (từ vĩ tuyến 16 trở ra), Anh, Ấn (từ vĩ tuyến 16 trở vào). Rồi Pháp trở lại thay Tàu, Anh, Ấn đưa Việt Nam vào khói lửa chiến tranh ròng rã 8 năm trời. Hội Nghị Geneva kết thúc, chiến tranh đã qua phân đất nước đưa một triệu người miền Bắc tỵ Tần vào Nam. Ngày 30 tháng 4 năm 1975, miền Bắc hoàn tất cuộc xâm lăng miền Nam, đẩy cả mấy trăm ngàn người rời bỏ quê hương đi tìm tự do. Văn học Việt Nam cũng chịu ảnh hưởng nặng nề của những diễn biến chính trị. Sau Tự Lực Văn Đoàn, chính quyền Việt Minh nhập cảng những tư tưởng ngoại lai với Văn Học Khái Luận của Đặng Thái Mai, với Đề Cương Văn Hoá Việt Nam, Chủ Nghĩa Mác và Văn Hoá Việt Nam của Trường Chinh. Nhiều từ ngữ mới và khái niệm mới xuất hiện như: Trung với nước, hiếu với dân, trường kỳ kháng chiến, tam vô nhị các, tính chiến đấu, tính giai cấp, tính dân tộc, tính hiện thực, tính nghệ thuật, tính đảng, nhất trí, khẩn trương, tố gian, tố điêu. Cuộc cải cách ruộng đất, phong trào Nhân văn Giai phẩm ở miền Bắc, phong trào Tố Cộng ở miền Nam cũng đã ảnh hưởng sâu xa tới văn học Việt Nam. Sự phát triển khoa ngữ học, kỹ nghệ sản xuất máy vi tính, sự bùng nổ thông tin đã làm giàu cho văn học Việt Nam vào cuối thế kỷ XX và đầu thế kỷ XXI vô kể. Cùng với sự tiếp thu cả về tư tưởng lẫn ngữ vựng vô tổ chức và chưa kịp tiêu hoá đó, người Việt Nam hơn bao giờ hết cần phải thống nhất chữ nghĩa, về nghĩa cũng như về chữ viết. Vô hình trung mà chúng ta gặp lại điều khẩn cấp thứ tư (Chỉnh Đốn Học Pháp) trong Tế Cấp Bát Điều mà học giả Nguyễn Trường Tộ (1827?-1871) đã điều trần lên vua Tự Đức. Nhà học giả này đề nghị bỏ cái học từ chương, chuộng cái học kỹ thuật thực dụng. Nguyễn Trường Tộ cũng đề nghị dùng quốc âm, lấy chữ Hán đọc ra quốc âm. Từ đó, ông đề nghị phải thống nhất chữ viết, phải có tự điển làm chuẩn mực cho chữ quốc âm. Cuốn sách quý vị cầm trên tay không có tham vọng áp đặt mọi người phải theo những chuẩn mực đề nghị để thống nhất cách viết chữ quốc ngữ. Đây chỉ là những gợi ý, những thâu lượm, những đề nghị về một số quy tắc để dùng làm căn bản thảo luận hầu đi đến mục đích trên. Công cuộc này đòi hỏi sự tiếp tay góp sức của nhiều người Vịệt Nam thành tâm thiện chí khắp nơi trên thế giới. Chúng tôi với tấm lòng thành thiết nghĩ rằng thà thắp một ngọn nến nhỏ, còn hơn là ngồi trong bóng tối mà nguyền rủa, nên đã không quản tài sơ trí thiển mạo muội soạn tập sách này, mong được quý bậc cao minh chỉ dậy, hướng dẫn, để lần tái bản được hoàn mỹ hơn, chúng tôi xin tri ân quý vị. Ngày 10 tháng 11 năm 2013. Lưu Trung Khảo. Chủ tịch Hội Ái Hữu Cựu Giáo Chức Việt Nam tại Hải Ngoại Tham Khảo: http://www.hungsuviet.us/vanhoa/ThongNhatQN.html |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét