Vua Hùng Dựng NướcVua Hùng dựng nước Văn Lang Năm ngàn năm trước, huy hoàng trời Đông Giang san một dải mênh mông Bắc phương Hán tộc, Nam phương Lạc Hồng. Động Đình là ải biên cương Phía Tây Ba Thục, tiếp dòng Trường Sơn! Phía Nam giáp với Hồ Tôn Nhìn ra Nam Hải, sóng dâng vơi đầy... Bộ tộc Lạc Việt anh tài Mình xâm rồng rắn khiếp loài kình ngư Phong Châu là chốn kinh đô Lạc Hầu, Lạc Tướng giúp vua trị vì Các quan Bồ Chính, trưởng chi Coi sóc làng xóm, vỗ về Lạc dân Thuở còn trời đất hỗn mang Nhà sàn ta ở, sống gần văn minh! Cha truyền con nối yên bình Chính trị “phụ đạo”, dân tình thuần lương. Hoàng tử tên gọi Quan Lang Mị Nương công chúa, cành vàng ngày xưa. Hồng Bàng là họ nhà vua Hăm sáu thế kỷ (2622 năm) Trên hai mươi đời... Thuần phong mỹ tục sáng ngời Tổ tiên thờ phụng, đạo Trời niềm tin Đời đời tiết liệt trung trinh Tinh thần bất khuất, đấu tranh chẳng sờn! Cha ông dựng nước oai hùng Cháu con hãnh diện, dốc lòng biết ơn Ai ơi! Uống nước nhớ nguồn Ăn trái nhớ kẻ vun trồng nên cây!Vương Sinh (Song Thuận) |
Ngày giỗ tổ Hùng Vương hay còn gọi là "Lễ hội Đền Hùng" là một ngày lễ trọng đại của Việt Nam.
Hùng Vương (2879 B.C.)
(10 thang 3 . A.L)
(10 thang 3 . A.L)
Tiểu sử Vua Hùng
Tiểu sử: Vua Hùng là tên gọi chung 18 đời Vua Hùng trong họ Hồng Bàng (2879-258 tr. Tây
lịch). Nếu kể cả Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân, có tất cả 20 đời Vua trong họ Hồng
Bàng.
Theo truyền thuyết, Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, lấy
bà Tiên sinh ra Lộc Tục. Vua phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam tức Kinh Dương.
Vương.Kinh Dương Vương kết hôn với Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm nối ngôi vua, xưng là
Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân cưới bà Âu Cơ sinh được 100 con trai. Về sau, 50 con theo cha xuống biển
và 50 con theo mẹ lên núi, đi về phương Nam lập ra nước Văn Lang.
Người con trưởng làm vua nước Văn Lang xưng là Hùng Vương thứ nhất, đóng đô ở Phong
Châu (1), chia nước ra làm 15 Bộ, cha truyền con nối theo chế độ Phụ Đạo, có quan Lạc
Tưóng, Lạc Hầu phụ tá và quan Bồ Chính là chức quan nhỏ trông coi Lạc dân, và gọi con
trai là Quan Lang, con gái là Mỵ Nương. Hùng Vương truyền ngôi được 18 đời.
lịch). Nếu kể cả Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân, có tất cả 20 đời Vua trong họ Hồng
Bàng.
Theo truyền thuyết, Đế Minh là cháu ba đời vua Thần Nông, đi tuần thú phương Nam, lấy
bà Tiên sinh ra Lộc Tục. Vua phong cho Lộc Tục làm vua phương Nam tức Kinh Dương.
Vương.Kinh Dương Vương kết hôn với Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm nối ngôi vua, xưng là
Lạc Long Quân.
Lạc Long Quân cưới bà Âu Cơ sinh được 100 con trai. Về sau, 50 con theo cha xuống biển
và 50 con theo mẹ lên núi, đi về phương Nam lập ra nước Văn Lang.
Người con trưởng làm vua nước Văn Lang xưng là Hùng Vương thứ nhất, đóng đô ở Phong
Châu (1), chia nước ra làm 15 Bộ, cha truyền con nối theo chế độ Phụ Đạo, có quan Lạc
Tưóng, Lạc Hầu phụ tá và quan Bồ Chính là chức quan nhỏ trông coi Lạc dân, và gọi con
trai là Quan Lang, con gái là Mỵ Nương. Hùng Vương truyền ngôi được 18 đời.
Công đức: Các vị vua Hùng có công lập nên nước Văn Lang, tức là nước Việt Nam ngày
nay, nên gọi là Quốc Tổ Hùng Vương.
nay, nên gọi là Quốc Tổ Hùng Vương.
Đền thờ: Trên núi Ngũ Lĩnh, Huyện Phong Châu, Tỉnh Phú Thọ (Vĩnh Phú) Bắc Việt.
Tại Hoa Kỳ, Đền Hùng ở Lillte Sàigòn do Hội CNAM & Hoi Den Hung Hai Ngoai thờ phụng.
Tại Hoa Kỳ, Đền Hùng ở Lillte Sàigòn do Hội CNAM & Hoi Den Hung Hai Ngoai thờ phụng.
Ngày Kỷ Niệm: Ngày mồng 10 tháng 3 Âm Lịch mỗi năm.
Đền Hùng là tên gọi nơi thờ phụng các vị Vua Hùng và tôn thất của nhà vua trên núi Nghĩa
Lĩnh. Giỗ Tổ hùng Vương được tổ chức tại đây hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch.
Đền Hùng được xây từ năm 980 (thời vua Đinh Tiên Hoàng). Đến thế kỷ 15 (thời Hậu Lê)
được trùng tu quy mô như hiện nay.Theo cuốn Ngọc phả Hùng Vương, thời các Vua Hùng
đã cho xây dựng điện Kính Thiên trên khu vực núi Nghĩa Lĩnh này.
Núi Nghĩa Lĩnh: Cao 175 mét (có nhiều tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy
Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn), thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố
Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trong một khu rừng cấm. cách Việt Trì khoảng 10km. Khu vực đền
Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang cổ xưa.
Cổng đền: Được xây vào năm Khải Định thứ 2 (1817) ở chân núi.
Lĩnh. Giỗ Tổ hùng Vương được tổ chức tại đây hàng năm vào ngày 10 tháng 3 âm lịch.
Đền Hùng được xây từ năm 980 (thời vua Đinh Tiên Hoàng). Đến thế kỷ 15 (thời Hậu Lê)
được trùng tu quy mô như hiện nay.Theo cuốn Ngọc phả Hùng Vương, thời các Vua Hùng
đã cho xây dựng điện Kính Thiên trên khu vực núi Nghĩa Lĩnh này.
Núi Nghĩa Lĩnh: Cao 175 mét (có nhiều tên gọi như Núi Cả, Nghĩa Lĩnh, Nghĩa Cương, Hy
Cương, Hy Sơn, Bảo Thiếu Lĩnh, Bảo Thiếu Sơn), thuộc địa phận xã Hy Cương, thành phố
Việt Trì, tỉnh Phú Thọ, trong một khu rừng cấm. cách Việt Trì khoảng 10km. Khu vực đền
Hùng ngày nay nằm trong địa phận của kinh đô Phong Châu của quốc gia Văn Lang cổ xưa.
Cổng đền: Được xây vào năm Khải Định thứ 2 (1817) ở chân núi.
1- Đền Hạ: Tương truyền là nơi Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, nở thành 100 người con
trai.
- Nhà bia: Nhà bia nằm cạnh đền Hạ, hình lục giác với 6 mái
- Chùa Thiên Quang (Thiên quang thiền tự): tọa lạc gần đền Hạ.
trai.
- Nhà bia: Nhà bia nằm cạnh đền Hạ, hình lục giác với 6 mái
- Chùa Thiên Quang (Thiên quang thiền tự): tọa lạc gần đền Hạ.
2- Đền Trung: Tương truyền là nơi các Vua Hùng cùng các Lạc hầu, Lạc tướng du ngoạn
Nghĩa Lĩnh ngắm cảnh và họp bàn việc nước.
Nghĩa Lĩnh ngắm cảnh và họp bàn việc nước.
3- Đền Thượng: Trên đỉnh núi nơi có lăng mộ vua Hùng thứ 6. Theo truyền thuyết, xưa các
Vua Hùng thường đến đâylàm lễ tế trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa
màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Ngoài cổng đền có dòng đại tự: "Nam Việt triều tổ" (tổ
tiên của Việt Nam).
- Cột đá thề: Bên phía tay trái đền Thượng.
- Lăng Hùng Vương (Hùng Vương lăng) tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ
nằm ở phía đông Đền Thượng, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa đây là một mộ đất,
thời Tự Đức năm thứ 27 (năm 1870) đã cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7
(năm 1922) trùng tu lại.
- Đền Giếng: Dưới chân núi. Tương truyền là nơi công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con
gái của Vua Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này.
Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 18.
- Đền Tổ mẫu Âu Cơ: Là một ngôi đền mới, được bắt đầu xây dựng vào năm 2001 và
khánh thành tháng 12 năm 2004. Đền được xây dựng trên núi Ốc Sơn (núi Vặn).
- Bảo tàng Hùng Vương: được khởi công xây dựng vào năm 1996 và khánh thành đúng
ngày khai hội Đền Hùng năm Quý Mùi 2003.
- Hồ nước: dưới chân núi Nghĩa Lĩnh, xưa trồng nhiều sen.
Vua Hùng thường đến đâylàm lễ tế trời đất, thờ thần lúa, cầu mong mưa thuận gió hòa, mùa
màng tươi tốt, nhân khang vật thịnh. Ngoài cổng đền có dòng đại tự: "Nam Việt triều tổ" (tổ
tiên của Việt Nam).
- Cột đá thề: Bên phía tay trái đền Thượng.
- Lăng Hùng Vương (Hùng Vương lăng) tương truyền là mộ của Vua Hùng thứ 6. Lăng mộ
nằm ở phía đông Đền Thượng, mặt quay theo hướng Đông Nam. Xưa đây là một mộ đất,
thời Tự Đức năm thứ 27 (năm 1870) đã cho xây mộ dựng lăng. Thời Khải Định tháng 7
(năm 1922) trùng tu lại.
- Đền Giếng: Dưới chân núi. Tương truyền là nơi công chúa Tiên Dung và Ngọc Hoa (con
gái của Vua Hùng thứ 18) thường soi gương, vấn tóc khi theo cha đi kinh lý qua vùng này.
Đền được xây dựng vào thế kỷ thứ 18.
- Đền Tổ mẫu Âu Cơ: Là một ngôi đền mới, được bắt đầu xây dựng vào năm 2001 và
khánh thành tháng 12 năm 2004. Đền được xây dựng trên núi Ốc Sơn (núi Vặn).
- Bảo tàng Hùng Vương: được khởi công xây dựng vào năm 1996 và khánh thành đúng
ngày khai hội Đền Hùng năm Quý Mùi 2003.
- Hồ nước: dưới chân núi Nghĩa Lĩnh, xưa trồng nhiều sen.
Lễ hội đền Hùng (Giỗ Tổ Hùng Vương)
Dù ai đi ngược về xuôi
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Nhớ ngày giỗ tổ mùng mười tháng ba
Lễ hội đền Hùng là một lễ hội lớn, diễn ra vào ngày 10 tháng 3 âm lịch. Trươc đó hàng năm
có tục đâm đuống (đánh trống đồng) của dân tộc Mường, hành hương tưởng niệm các vua
Hùng, và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng hương trên Đền
Thượng. Có 2 lễ chính:
có tục đâm đuống (đánh trống đồng) của dân tộc Mường, hành hương tưởng niệm các vua
Hùng, và kết thúc vào ngày 10 tháng 3 âm lịch với lễ rước kiệu và dâng hương trên Đền
Thượng. Có 2 lễ chính:
1- Lễ rước kiệu vua: Đám rước kiệu với màu sắc sặc sỡ của bạt ngàn cờ, hoa, lọng,
kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền
Thượng, nơi làm lễ dâng hương.
kiệu, trang phục truyền thống xuất phát từ dưới chân núi rồi lần lượt qua các đền để tới đền
Thượng, nơi làm lễ dâng hương.
2- Lễ dâng hương: Người hành hương tới đền Hùng chủ yếu vì nhu cầu của đời sống
tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ
những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc
cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá
cắm đỏ những chân hương. Có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát
xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Vĩnh Phú, những cuộc thi vật, thi
kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc (Phường Bạch Hạc, phường Bến Gót nằm
ở phía Nam thành phố Việt Trì, cửa ngõ nối liền giữa Phú Thọ và các tỉnh miền núi phía Tây
Bắc với Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Ngã ba Hạc từ lâu đã nổi tiếng), nơi các vua
Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến.
tâm linh. Mỗi người đều thắp lên vài nén hương khi tới đất Tổ để nhờ làn khói thơm nói hộ
những điều tâm niệm của mình với tổ tiên. Trong tâm hồn người Việt thì mỗi nắm đất, gốc
cây nơi đây đều linh thiêng và chẳng có gì khó hiểu khi nhìn thấy những gốc cây, hốc đá
cắm đỏ những chân hương. Có nhiều trò chơi dân gian đặc sắc. Đó là những cuộc thi hát
xoan (tức hát ghẹo), một hình thức dân ca đặc biệt của Vĩnh Phú, những cuộc thi vật, thi
kéo co, hay thi bơi trải ở ngã ba sông Bạch Hạc (Phường Bạch Hạc, phường Bến Gót nằm
ở phía Nam thành phố Việt Trì, cửa ngõ nối liền giữa Phú Thọ và các tỉnh miền núi phía Tây
Bắc với Hà Nội và các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ. Ngã ba Hạc từ lâu đã nổi tiếng), nơi các vua
Hùng luyện tập các đoàn thủy binh luyện chiến.
(Nguồn: Wikipedia).Chú thích(1) Phong Châu
: Kinh đô nước Văn Lang, có lẽ nay ở khu vực Làng Cả thuộc thành phố
Việt Trì (xưa là thị xã, nay là thành phố được thành lập năm 1962, cách Hà Nội 70 km về
phía Tây Bắc, trên “ngã ba Hạc” (Bạch Hạc - ngã ba sông Hồng, Thao và Lô), trực thuộc
tỉnh Phú Thọ nơi có Đền Hùng (Huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ) trên núi Ngũ Lĩnh – Dt
khoảng 166 km2.
Lăng Hùng Vương
trên đỉnh núi Ngũ Lĩnh
(Sources: Wikipedia)
trên đỉnh núi Ngũ Lĩnh
(Sources: Wikipedia)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét