Tóm tắt
Lịch Sử Việt Nam
(từ thời Hồng Bàng đến 2009)
Nước Việt Nam thuộc về phía đông nam Á châu, là một dải non sông dài và hẹp ở miền
Trung, rộng hai đầu Nam Bắc giống hình chữ S, bắc giáp Trung Hoa, tây giáp Lào và
Campuchia, đông và nam giáp biển Đông.
Dân tộc Việt đa số thống nhất về chủng tộc, tiếng nói và phong tục tập quán.
Theo truyền thuyết, nước Việt Nam xưa bao gồm vùng đất Ngũ Lĩnh, phía nam nước Tàu
từ Động Đình Hồ tới nước Hồ Tôn (Chiêm Thành, miền Trung Việt Nam ngày nay) nên gọi
là Lĩnh Nam. Sau có nhiều tộc Việt đến sinh sống ở Lĩnh Nam, vì thế còn gọi là đất Bách
Việt.
Lịch sử Việt Nam là lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm.
Họ Hồng Bàng mở nước từ năm 2879 trước CN, do Kinh Dương Vương trị vì rồi truyền
ngôi cho Lạc Long Quân và 18 đời vua Hùng. Các vị vua Hùng đóng đô ở Phong Châu
(Bắc Việt ngày nay), đặt tên nước là Văn Lang.
Thời vua Hùng có những chuyện cổ tích truyền miệng như “Phù Đổng Thiên Vương phá
giặc Ân”, “Bánh chưng bánh dày”, “Sơn tinh Thủy tinh” v…v…
Năm 257 tr. CN, Thục Phán đánh bại vua Hùng thứ 18, lên làm vua, hiệu An Dương
Vương lập ra nhà Thục và đặt tên nước là Âu Lạc, kéo dài 50 năm.
Năm 207 tr. CN, Triệu Đà phản lại nhà Tần, chiếm đất Bách Việt, lên làm vua tức Triệu Vũ
Đế, thành lập nước Nam Việt độc lập với nhà Hán. Nhà Triệu truyền được 5 đời kéo dài
96 năm.
Năm 111 trước CN, nhà Tây Hán (Tiền Hán) xâm lăng và tiêu diệt nước Nam Việt, chia ra 9
quận để cai trị.
Đây là thời kỳ Bắc thuộc lần Thứ Nhất (111 tr. CN – năm 39), kéo dài 150 năm.
Năm 40, Hai chị em bà Trưng Trắc, Trưng Nhị vì nợ nước thù nhà đã khởi nghĩa đánh
đuổi thái thú Tô Định về Tàu, thu lại 4 quận Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và
65 thành, lên làm vua tức Trưng Nữ Vương (40-43), được 3 năm thì bị nhà Đông Hán sai
Mã Viện sang xâm lăng. Hai Bà Trưng phải nhẩy xuống sông Hát tuẫn tiết.
Đây là thời kỳ Bắc thuộc lần Thứ Hai (43-544) kéo dài 501 năm.
Trong thời kỳ này có sự nổi dậy của Bà Triệu Thị Trinh ở Thanh Hóa đánh nhau với
quân Đông Ngô do thứ sử Lục Dận chỉ huy. Bà Triệu đã hy sinh năm 23 tuổi.
Nhà Đông Ngô đô hộ nước ta rất tàn ác, chia cắt nước Nam Việt thành Quảng Châu và
Giao Châu (Giao Châu gồm 4 quận Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam).
Năm 544 Lý Bôn nổi lên đánh đuổi thứ sử Tiêu Tư của nhà Lương về Tàu (Đông Ngô -
Tấn - Tống - Tề - Lương), lên làm vua tức Lý Nam Đế (544-548) lập ra nhà Tiền Lý (544-
602), đặt tên nước là Vạn Xuân. Trong thời kỳ này có Triệu Quang Phục (Dạ Trạch
Vương) đánh đuổi Trần Bá Tiên của nhà Lương, lên nối ngôi nhà Lý tức Triệu Việt Vương
(549-571). Sau Lý Phật Tử giành được ngôi của Triệu Việt Vương trở thành Hậu Lý
Nam Đế (571-602), nhưng đến năm 602 phải đầu hàng nhà Tùy (Nhà Tùy thống nhất
được Nam Bắc nước Tàu thời đó).
Đây là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 3 (603-939).
Trong thời kỳ này có các cuộc khởi nghĩa của Lý Tự Tiên và Đinh Kiến (687), Mai Hắc
Đế (722), Bố Cái Đại Vương Phùng Hưng (791) và họ Khúc dấy nghiệp ở Giao Châu
gồm có Khúc Thừa Dụ (900-907), Khúc Hạo (907-917), Khúc Thừa Mỹ (917-923). ..
Năm 939, Ngô Vương Quyền dùng mưu cắm cọc bọc sắt trên sông Bạch Đằng phá tan
quân Nam Hán, bắt được thái tử Hoằng Tháo của Nam Hán giết đi rồi xưng Vương, mở ra
kỷ nguyên tự chủ từ đó.
Tổng cộng 3 thời kỳ Bắc thuộc là 989 năm.
Ngô Quyền (939-944) chỉ xưng Vương, truyền 2 đời dài 26 năm.
Năm 968 Đinh Bộ Lĩnh dẹp yên 12 Sứ quân, lên làm vua tức Đinh Tiên Hoàng (968-979),
lập ra nhà Đinh, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đóng đô ở Hoa Lư, truyền 2 đời dài 12 năm.
Năm 980 Lê Hoàn tức Lê Đại Hành (980-1005) lên ngôi, đánh Tống Bình Chiêm, lập ra
nhà Tiền Lê, truyền 3 đời, dài 29 năm.
Năm 1010 Lý Công Uẩn lên ngôi tức Lý Thái Tổ (1010-1028), lập ra nhà Lý, đóng đô ở
Thăng Long, truyền 9 đời , dài 216 năm. Nhà Lý có danh tướng Lý Thường Kiệt (1019-
1105) và nhiều tướng tài đánh Tống bình Chiêm làm vẻ vang dân Việt. Vua Lý Thánh
Tông (1054-1072) đổi tên nước là Đại Việt.
Năm 1225 Trần Cảnh lên ngôi tức Trần Thái Tông (1225-1258), lập ra nhà Trần truyền
được 13 đời, kéo dài 175 năm. Nhà Trần có danh tướng Hưng Đạo Vương Trần Quốc
Tuấn và rất nhiều danh tướng đã phá tan quân Nguyên Mông 3 lần xâm lăng Đại Việt.
Chiến thắng Bạch Đằng Giang một lần nữa làm quân thù phương Bắc khiếp vía, rửa
được mối nhục gần ngàn năm bị đô hộ.
Năm 1400, Hồ Quý Ly lên làm vua lập ra nhà Hồ chỉ được 7 năm thì bị giặc Minh xâm lăng,
đô hộ Việt Nam thêm 13 năm (1414-1427). Đây là thời kỳ Bắc thuộc lần thứ 4.
Năm 1428 Bình Định Vương Lê Lợi đánh đuổi giặc Minh, lên ngôi tức Lê Thái Tổ (1428-
1433) lập ra nhà Hậu Lê truyền 27 đời kéo dài 160 năm. Thời nhà Hậu Lê có danh nhân
Nguyễn Trãi (1380-1442) và rất nhiều tướng tài giúp vua Lê Lợi đánh giặc xâm lược,
giành lại đất nước Đại Việt.
Sau nhà Lê, đến thời nhà Mạc (1527-1592) truyền được 8 đời, dài 65 năm ở kinh thành
và 85 năm ở vùng Cao Bằng.
Thời Trịnh Nguyễn phân tranh, chia nước Việt thành Đàng Trong (Nam) và Đàng
Ngoài (Bắc), lấy sông Gianh làm ranh giới.
Chúa Nguyễn Hoàng (1558-1613) ở Đàng Trong và các chúa Nguyễn nối tiếp có công
mở đất miền Nam rộng tới mũi Cà Mâu.
Năm 1788 Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ lên ngôi tức Quang Trung Hoàng Đế (1788-
1792) đánh đuổi giặc Mãn Thanh do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy vào mùa xuân 1789, mở đầu cho
thời kỳ độc lập và xóa bỏ lằn ranh phân chia Nam Bắc.
Năm 1802 Nguyễn Ánh lên ngôi lấy niên hiệu Gia Long tức Nguyễn Thế Tổ (1802-1819)
lập ra nhà Nguyễn, thống nhất Việt Nam, truyền 12 đời kéo dài 143 năm. Nhà Nguyễn chỉ
giữ được nền độc lập từ 1802 đến 1883 kéo dài 81 năm. Từ 1883 đến 1945 là thời kỳ
Pháp đô hộ, dài 62 năm.
Trong thời kỳ Pháp thuộc, có nhiều tổ chức, phong trào, đảng phái và anh hùng, danh
nhân nổi lên chống Pháp, giành quyền tự quyết cho dân tộc Việt. Những vị anh hùng,
danh nhân chống Pháp được lịch sử nhắc nhở như Trương Công Định (1820-1864),
Nguyễn Trung Trực (1837-1868), Phan Đình Phùng (1844-1895), Hoàng Hoa Thám
(1858-1913), Phan Bội Châu (1867-1940), Phan Chu Trinh (1872-1926), Nguyễn Thái
Học (1901-1930)…
Sau 1945 Pháp trở lại Việt Nam thêm 9 năm nữa cho tới Hiệp Định Genève 20 tháng 7,
1954 chia đôi đất nước, lấy ranh giới là sông Bến Hải: Miền Bắc theo chế độ Cộng Sản
và Miền Nam theo chế độ Dân Chủ Tự Do.
Năm 1975, chế độ Cộng Sản cai trị cả nước Việt Nam, lập ra Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa.
Ngày nay có hơn 3 triệu người Việt tự do đã di tản và định cư ở nước ngoài, lập thành
những khu Cộng Đồng Đồng Hương người Việt tại nhiều quốc gia trên thế giới và mau
chóng ổn định đời sống, tạo được nhiều thành công về kinh tế, thương mại, khoa học, y
tế, kỹ thuật và chính trị.. làm vẻ vang dân tộc Việt.
(Song Thuận – 5/2009)
* Tham khảo:
- Đại Việt Sử Ký Toàn Thư
- Việt Nam Sử Lược - Trần Trọng Kim
- Tự điển Nhân Vật Lịch Sử Việt Nam - Nguyễn Q Thắng, Nguyễn Bá Thế
- Việt Sử Toàn Thư - Phạm Văn Sơn
- Đại Nam Quốc Sử Diễn Ca - Lê Ngô Cát, Phạm Đình Toái
- Lịch Sử Dân Tộc Việt Nam - Phạm Cao Dương
- Thế Thứ Các Triều Vua Việt Nam - Nguyễn Khắc Thuần
- Đất Nước Việt Nam Qua Các Đời - Đào Duy Anh
- An Nam Chí Lược - Lê Tắc
- Việt Sử Tiêu Án - Ngô Thời Sỹ
- Sử Trung Quốc - Nguyễn Hiến Lê
- Sử Ký - Tư Mã Thiên (Sách Dịch ra tiếng Việt)
- Thủy Kinh Chú Sớ - Lịch Đạo Nguyên (chủ) - Sách dịch ra tiếng Việt.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét