Thứ Ba, 24 tháng 3, 2015

Hoài Niệm Tuổi Trẻ


Sau ngày gọi là "giải phóng", rất nhiều nhà văn, nhà báo, chuyên viên, giáo sư đổi ra đạp xích lô.
Đó cũng là một góc cạnh về thế hệ thanh niên miền Nam đọa đầy dưới gót của đôi dép râu?
Sau 19 75, ra ngoài đường, Sài gòn vắng bóng chiếc áo dài. Cũng là vắng bóng tuổi trẻ miền Nam? Hay tuổi trẻ miền Nam không còn nữa? Người ta không còn phân biệt ai là con gái, ai là đàn bà được nữa đến như thể ai cũng là đàn bà, đến như thể ai cũng mất cả rồi.
Khi không còn những áo dài đó, Sài gòn buồn thiu. Như cây rừng không còn lá.
Tuổi trẻ miền Nam thời ấy ( trước 1975) biểu tượng vẫn là hình ảnh cô thiếu nữ mặc áo dài trắng quần trắng. Đừng thứ mầu khác, đừng xanh đỏ lò loẹt. Vén tà áo dài sang bên, hở một bên, kín một bên, cho thấy đùi trinh nữ, cho thấy tuổi dạy thì, hai đùi nhẹ khép lại khi bước đi hay khi ngồi trên chiếc xe vê lô sô lếch thời thượng.
Bây giờ, tôi không thấy những bước đi kiêu sa thiếu nữ như thế nữa. Đó là hình ảnh cô gái, mình ong thon thon ngồi trên chiếc xe Solex trông giống như một con bò ngựa biết bay. Phất phới, tung gió, nhẹ lướt, mái tóc hất lại đẵng sau, đầu buộc bím mầu xanh tím, để lại đằng sau những cái nhìn dõi suôi bắt không kịp. Và những đôi mắt thèm thuồng......thôi rồi Sài Gòn ơi!
Có phải em mang trên áo bay
Hai phần gió thổi, một phần mây
Hay là em gói mây trong áo
Rồi thở cho làn áo trắng bay?
Em cười tà áo bay trên
Đám mây ở dưới nỗi phiền muộn xa
Anh ngồi chỗ hẹn hôm qua
Đám mây ngồi cạnh bài thơ nhẹ nhàng,

Con gái biểu tượng nhất, cái Look theo nghĩa bây giờ là hình ảnh cái thân hình dong, lưng thẳng, găng tay trắng, cặp kính mầu, áo dài trắng, phải áo dài trắng mới được, mới con gái, mới trinh nữ, mới thanh khiết. Vạt áo dài phía sau vắt ngang sang bên kia để hở một bên phần đùi trông cộn hẳn lên trên chiếc Vê lô solex mầu đen. Đi xe vê lô solex chứng tỏ con nhà khá một tý, sang trọng và đài các. Cái dáng ngồi solex trông rất con gái, rất phái tính.
Người phụ nữ sinh ra là để như vậy. Les femmes seraient faites ainsi.
Quyến rũ bằng chính thân xác mình.
Nhờ áo dài đó mà phụ nữ, cô nữ sinh trở thành phụ nữ hơn. Phải nói là thời thượng và ấn tượng lắm.Nó biểu tượng cho cái gì tinh khiết, trinh nữ, tinh tuyền và mời gọi. Nó che dấu bằng hai vạt áo dài mà như thể mở, biện chứng kín mà hở. Nó mời mọc mà kín đáo chối từ, nó bày tỏ phái tính, sexy đến ứ cổ họng với nét nổi lên của chiếc quần lót hằn lên tuổi dậy thì. Không có y phục phụ nữ nào trên thế giới lại sexy đến như thế. Ngay cả sau này với mini-jupe cũng không sánh bì
Áo dài không ăn gian, cạnh đó là hàng nút bấm mong manh như lối ngõ vào bên trong nằm hở ra cạnh sườn. Nó không những chỉ là một nét đẹp con gái mà nó trở thành biểu tượng cho một nếp sống văn hóa Việt Nam.

Chẳng biết từ lúc nào toàn miền Nam mà đặc biệt các nữ sinh Trung Học, từ Sài gòn ra Trung, từ Sài gòn xuống Lục tỉnh. Chỉ áo dài là áo dài. Áo dài Trưng Vương, áo dài Gia Long, áo dài Nữ trung học Lê văn Duyệt, áo dài Nguyễn Đình Chiểu, Mỹ Tho, áo dài Tống Phước Hiệp, Vĩnh Long, áo dài Nữ Trung Học Nha Trang và nhất là áo dài Đồng Khánh Huế.
Và nó cũng mở đầu cho thiên tình khúc tuyệt vời Ngày xưa ... Hoàng Thị của Pham Thiên Thư
Sau này, không biết bao nhiêu những tranh ảnh, bìa báo Xuân, báo Tết chụp hình các thiếu nữ trẻ miền Nam trong chiếc áo dài truyền thống đó.
Và người ta có thể hãnh diện về điều này mà không có gì phải hổ thẹn khi nói đến.
Tuổi thanh xuân thiếu nữ đi liền với nét đẹp con gái ấy. Cộng thêm cái thói ăn quà vặt. Ăn qùa vặt là rất con gái, rất trẻ, rất bắt mắt. Khi cô nữ sinh ăn quà thì tưởng là ăn quà thật. Nhưng đôi khi cũng chỉ là cái cớ sự cho sự trình diễn, sự được nhìn. Nó như chờ đợi một điều gì đó.... đã chờ đợi từ tuổi 15, 16 thời con gái, nay đà 30 và bao nhiêu thế hệ con gái cũng đã chờ đợi như thế. Như cơn mưa mùa hạ. Như chồi non hé nụ. Như em chờ anh lúc này
Cuộc đời đôi khi đơn giản là như thế.
Ngoài hai thứ đó ra, con gái cũng đi dạo phố. Con trai đi dạo phố là để ngắm. Con gái đi dạo phố xuất hiện như một trình diễn, ăn diện, mốt, kiểu để được nhìn, để được thừa nhận, để nhận phần lớn là những lời tán tỉnh, khen tặng.
Và cuối cùng, thú vui giải trí chung cho cả con trai lẫn con gái vẫn là ciné và tiệm sách. Ciné là nơi hẹn hò để trai gái gặp nhau cuối tuần để trò chuyện, để tỏ tình, để lén lút hôn nhau. Những nụ hôn mật ngọt ấy. Quên sao được. Những mối tình của giới trẻ thời đó đến đó và dừng lại ở đó. Sau đó để lại một chút gì. Để kỷ niệm, để nhớ, để mãi mãi là như thế.
Nay gặp nhau cuối đời, lòng như chợt tỉnh, như chấu ủ bếp lửa bừng lên từ đám tro tàn. Gặp nhau muộn phiền, thương hoài ngàn năm.
Chân díu bước mà mắt nhìn vương vướng
Nàng đến gần tôi chỉ dám quay đi
Cả những giờ bên lớp học trường thi
Tà áo khuất thì thầm chưa phải lúc
(Tuổi mười ba)

Tuổi trẻ miền Nam là như thế. Lành mạnh mà không thiếu lãng mạn, tình tứ. Dắt tay nhau mà đi. Làm thơ tình. Gởi gắm nhắn nhe.
Nhưng may thay, mọi người Việt Nam, nhất là thanh niên, giới trẻ, lúc bấy giờ đều có một giấc mơ là làm thế nào để có một miền Nam phát triển và phú cường để đối địch với miền Bắc.
Và mặc dầu còn có những bất cập đủ thứ, tôi vẫn phải nhìn nhận rằng, những năm tháng còn lại, kể từ ngày ấy, mỗi giây phút năm tháng sống, học hành, lớn lên thành người thời đệ nhất Cộng Hòa Việt Nam vẫn là những năm tháng ân sủng cho tuổi trẻ của tôi và những bạn bè cùng trang lứa.
Chúng tôi đã lớn lên từ đó, trở thành người hữu dụng cũng từ đó.
Chúng tôi có bạn đồng hành, đồng trang lứa, có những người lính, người sĩ quan VNCH cùng lớn lên ở đấy, đang xả thân thay cho chúng tôi. Và cho dù cuối cùng để mất miền Nam thì những giá trị tinh thần ấy vẫn còn đó.
Nguyễn Văn Lục

Thứ Bảy, 14 tháng 3, 2015

Dấu Tích Thương Đau


Bích Huyền thực hiện

(Cảm nghĩ sau khi xem PPS “Dấu Tích Thương Đau”,
Hương Kiều Loan thực hiện nhân ngày 30/4/2009)



Khởi đầu bằng những nốt nhạc như giọt nước mắt rơi từng giọt trên phím dương cầm…, rồi tiếng saxo ngân dài như tiếng thở than, mở ra bức ảnh “Chiều Đã Xuống” nơi không gian mùa xuân vùng Hoa Thịnh Đốn, được ghi lại qua ống kính Hương Kiều Loan.
Vâng, chiều đã xuống, dòng sông “Lặng Lẽ” yên bình, lấp lánh chút nắng cuối cùng của một ngày sắp hết. Một người đang chậm rãi “Đếm Bước Thời Gian” trên chặng cuối cuộc đời. Tôi như nghe được cả tiếng gõ nhẹ của chiếc dù chống xuống từng viên gạch dưới chân. Người ấy chậm bước dọc theo hàng cột đá trắng lặng lẽ. Ống kính của Hương Kiều Loan không dừng lại nơi hình ảnh “Cô Độc” ấy mà tiếp tục chiếu thẳng lên cao, lên cao, nơi có những vòng hoa tưởng niệm màu tang đen. “Trên Cao” nữa…,

(“Vòng Tưởng Niệm”)

màu đen ấy hóa thành khối tròn nằm giữa những cột đồng đen tạo thành một quần thể mạnh mẽ và hài hòa với hai cánh phượng hoàng chụm vào nhau “Đâu Cánh”. Và khi “Những Ngôi Sao Đã Tắt” vô tình như “Dòng Thời Gian Trôi” để lại khoảng trời thinh lặng, bức tượng những người lính bắt đầu hiện ra...

Những dáng người ngồi ủ rũ, người ngửa mặt lên trời, người ôm vào lòng xác đồng đội vừa mới hy sinh.
Những người lính, gương mặt họ còn trẻ quá.
Những bông hoa cẩm chướng tươi đẹp màu đỏ thắm của ai đó đặt trên vai, trên tay người chết. Lác đác vài cánh hoa rơi. Bất động. Chỉ có hình ảnh cô bé con xinh xắn, trong trang phục màu đỏ, đầy nét sống động. Hình như cô bé đang chơi với những đóa hoa rơi…

Tất cả được Hương Kiều Loan ghi lại trong tác phẩm “Hoa Màu Máu”.
Bức màn quá khứ được Hương Kiều Loan mở ra…

Anh Phải Sống…!” Rồi…“Thượng Đế Ơi!”, tiếng kêu gào thống thiết, tuyệt vọng. Có ai nghe thấy không? Có ai thấu chăng? Người lính ngước mặt nhìn trời cao mênh mông… Ống kính chuyển sang bàn tay “Mỏi Mệt” của người lính. Những ngón tay đen đủi, im lìm trên bậc thềm đá lạnh lẽo. “Bây Giờ Sao Đây???”, “Không Thể Lùi”, Ta Phải Thắng!” “Nhưng…!!!” “Mất Rồi”, “Mất Hết Rồi!!!...” Chỉ còn đôi chân “Rã Rời…!” của người lính duỗi ra, bất động… Ôi, “Thương Đau” quá!
Người Bỏ Ta Đi” nhưng “Tên Người Bia Đá Khắc Sâu”…

Ống kính của Hương Kiều Loan thật tài tình, bén nhậy. Mọi góc cạnh nắm bắt chỉ trong khoảnh khắc nhưng mối xúc cảm thật mạnh mẽ và đọng lại rất lâu trong ánh mắt, trong trái tim người xem. Lòng tôi như chùng xuống, trái tim như có khối nặng đè lên, nghẹt thở…
Những người lính ấy đã nằm xuống trên giải đất quê hương tôi. Họ đã hy sinh thân mình để bảo vệ mảnh đất miền Nam Việt Nam tự do tươi đẹp. Tên tuổi họ chi chít trên bức tường đá đen. Ôi, “Dấu Tích Thương Đau” một thời… Hương Kiều Loan nắm bắt được hình ảnh phản chiếu người thiếu nữ đang quỳ xuống, gục đầu, chiếc bóng soi mờ ảo qua bức tường. “Đau Thương Đời Đời” chẳng sao quên… Và cái “Dấu Ấn Thương Đau” trên bức tường đá đen ấy ngày lại ngày soi bóng lớp lớp người đến viếng thăm. Như trong một cõi mộng, họ đang tìm nhau….

* * *

Tôi có nhiều dịp đến Washington DC thăm nhiều thắng cảnh của vùng Đông Hoa Kỳ. Mỗi nơi một vẻ đẹp nhưng Đài Tưởng Niệm Quốc Gia, trong đó có Bức Tường Đá Đen tại thủ đô Hoa Thịnh Đốn–ghi tên hơn 58,000 cựu quân nhân Mỹ hy sinh và mất tích trong cuộc chiến Việt Nam–vẫn làm cho tôi xúc động hơn cả…

Lần đầu tiên tôi đến thăm Bức Tường Đá Đen là vào năm 1992, khi chân ướt chân ráo vừa đến Hoa Kỳ. Hai mẹ con được Hồng Thủy và Minh Trân tặng cho vé máy bay sang dự Đại Hội Trưng Vương Hoa Anh Đào. Vợ chồng Viên-Thủy dẫn tôi và các bạn học cũ đến nơi đây. Tôi còn giữ nhiều hình ảnh hai mẹ con đứng bên những bức tượng.

Ngày ấy nhìn những bức tượng người lính tôi chỉ thấy lòng chùng xuống, thoáng cay cay trong mắt, chứ không có được những ý nghĩ tuyệt vời như trong các tiểu đề Hương Kiều Loan đã đặt tên. Mỗi dòng chữ tuy ngắn nhưng cô đọng và ngôn ngữ thì vô cùng, gợi cho người xem bao nỗi thương cảm và tri ân sâu đậm.
Hình ảnh bức tượng đồng những người lính chiến, những người nữ quân y đứng lặng lẽ trong khung cảnh xao xác lá cây cứ ám ảnh tôi mãi… Tôi cảm thấy lòng u uẩn khi nghĩ đến hàng triệu, hàng triệu cựu chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa đã hy sinh trước và sau ngày 30/4/75.

Linh hồn họ bây giờ đi đâu? Về đâu?
Biết bao giờ họ mới có một nơi an nghỉ thực sự?

Hàng năm không ngớt những lượt người đến viếng thăm, tìm hiểu về Bức Tường Đá Đen được dựng lên như một đài tưởng niệm và vinh danh 58,249 binh lính Mỹ đã hy sinh trong cuộc chiến Việt Nam để bảo vệ tiền đồn thế giới tự do. Những người cựu chiến binh ấy cũng như những người lính Việt Nam Cộng Hòa đã chiến đấu hăng say trong một cuộc chiến tuyệt vọng, tuy rạng ngời lý tưởng nhưng đã bị làm cho hoen ố vì những thương lượng trên bàn cờ chính trị nhơ bẩn tại Washington DC.

Thế nhưng những hy sinh của bao người lính ấy vẫn đời đời được tôn vinh!
Người có sáng kiến xây dựng tượng đài là ông Jan Scruggs, một cựu chiến binh đã từng tham chiến tại Việt Nam. Ông luôn suy nghĩ về cuộc chiến tranh này và ông rất mừng khi đọc được cuốn Carred To The Wall của Kristin Ann Hass, một nhà xã hội trường Đại học Michigan. Đây là tác phẩm nói lên lý tưởng cao đẹp của cuộc chiến, làm thay đổi cách nhìn sai lạc về cuộc chiến tranh Việt Nam.

Sau đó ông Jan Scruggs thiết lập được một ngân quỹ xây dựng Tượng Đài. Thời gian ấy, nhiều người Mỹ vẫn còn chán ghét và lên án cuộc chiến tại Việt Nam, nhất là sau thất bại của Mỹ tại đất nước này. Họ chống đối và ngăn cản việc xây dựng tượng đài.

Ông Jan vẫn giữ ý định và đã vượt qua bao khó khăn sóng gió để có được một ngân quỹ. Năm 1981, ông tổ chức cuộc thi vẽ đồ án. Người có đồ án được chọn trong 1,421 đồ án là cô Maya Ying Lin, người Mỹ gốc Trung Hoa, sinh viên kiến trúc Đại học Yale.

Khi đồ án trúng giải được công bố, tác giả bị chống đối mạnh mẽ vì Đài Tưởng Niệm ấy và các Đài Tưởng Niệm Tổng Thống Washington và Lincoln tạo thành hình chữ “V”, mẫu tự viết tắt của chữ Victory (Chiến Thắng), mà nhiều nhà phân tích cho rằng làm hỏng ý nghĩa nơi chốn an nghỉ. Nhiều người đòi cô Maya Ying Lin phải sửa đổi, nhưng cô từ chối. Cuộc tranh luận và vận động kéo dài đến sáu năm, Đài Tưởng Niệm mới được khởi công xây dựng. Kể từ lúc khánh thành (năm 1982) cho đến ngày nay, gần 30 năm qua, mỗi năm có hàng triệu người đến thăm viếng. Bức Tường Đá Đen vẫn là nơi thu hút du khách nhiều nhất. Nhiều người Mỹ ngày trước vẫn tỏ ra thờ ơ khi đến thăm nơi này, nhưng bây giờ thì họ bắt đầu nói rằng, “Chúng tôi đã nhìn thấy chính con người mình qua tượng đài ấy.” 

Lần thứ hai đến nơi đây vào mùa thu, tôi cảm thấy gần gũi, ấm áp hơn vì đã tìm hiểu được quá trình xây dựng khu tượng đài tưởng niệm cuộc chiến trên quê hương mình. Hơn thế nữa, ngày nay nhiều thành phố ở khắp các tiểu bang Hoa Kỳ đều có rất nhiều đài tưởng niệm cuộc chiến Việt Nam. Tượng Đài Chiến Sĩ Việt-Mỹ ở thành phố Westminster tại Little Saigon, trung tâm của người Việt tỵ nạn, là một trong những tượng đài được nhiều người biết đến và thường xuyên viếng thăm.

Các đài tưởng niệm cựu chiến binh Việt Nam và Hoa Kỳ trong cuộc chiến Việt Nam cũng như Đài Tưởng Niệm Nạn Nhân Chế Độ Cộng Sản tại DC vinh danh hơn một trăm triệu nạn nhân của chế độ cộng sản trên toàn thế giới, cho thấy người dân Hoa Kỳ luôn ghi nhớ và tôn vinh sự hy sinh cao cả của các chiến sĩ và những người đã không ngừng đấu tranh, hy sinh vì lý tưởng tự do…


* * *

Mùa thu khung cảnh nơi đây như đẹp hơn. Hàng cây như thay màu áo mới, không gian như rực rỡ hơn, bao phủ bức tường tưởng niệm tựa như những bông hoa mà thiên nhiên ban tặng. Như những tấm huy chương lấp lánh cài lên ngực áo của những người lính mà tên tuổi được khắc ghi trên Bức Tường Đá Đen. Chiến tranh Việt Nam là một cuộc chiến tranh chính nghĩa, anh hùng, tuy vẫn còn dư âm chua xót ngậm ngùi của một thời đã qua.

Dạo quanh khu Tưởng Niệm, tôi có cảm tưởng đang bước vào nơi ghi dấu một huyền thoại như thực như mơ. Chiến tranh Việt Nam, một thiên anh hùng ca bất tận!…

Hãy khép mắt… khép mắt thật khẽ
Có thấy chúng ta rơi vào giấc ngủ sâu vào những giấc mơ
Hương hoàng lan lẫn mái tóc người yêu

Những câu thơ ấy của Thanh Tâm Tuyền, từ bài thơ “Khai từ của một bản anh hùng ca”.

Ôi, khép mắt lại, khẽ thôi…, ta sẽ thấy gì? Chỉ thấy những ác mộng… Chỉ thấy cánh rừng cháy, người chết phơi thân xác tan tành, những chiến sĩ Việt Nam Cộng Hòa “hàng hàng lớp lớp chưa về”, đứng bất động trong mưa, nghiêm chào lá quốc kỳ lần cuối… Rồi chia tay. Nhiều người đã chọn cái chết.

Pháo lấp Khe Sanh, cắt Đường Chín
Như hung tin không kịp báo về
Gió Hạ Lào cuốn cờ tưởng niệm
Đá Trường Sơn đứng sững như mê
(Khoa Hữu)

Một thiên anh hùng ca tuyệt đẹp, trong đó những người hy sinh vì Tổ quốc, vì lý tưởng tự do bất tử với thời gian.

Bỗng dưng tôi chợt mơ ước, có một ngày trở về quê hương để tìm đến những nơi chôn cất thân xác những người đã nằm xuống trước và sau cuộc chiến. Thắp một nén nhang trên mỗi nấm mộ, nhổ sạch cỏ dại, lau bụi tấm mộ bia, viết trên những nấm mộ ấy hai chữ “Biết ơn”…
Đừng để cho…

Người lính trận bỏ tình đi đâu mất
Bỏ trăm năm khói tụ mây thành
Lòng nghĩa trang tiếc thương đã nhạt
Cả vòm trời như áo nửa manh

Đất ấy của ta, ta còn hiểu
Đồng đội của ta, ta còn đau
Giấy mực đời chép ra ví thiếu
Lấy da này viết để tạ nhau
(Khoa Hữu)

Xin cảm ơn Hương Kiều Loan với PPS “Dấu Tích Thương Đau” ghi lại thật đậm nét những “dấu tích” không bao giờ xóa nhòa trong tâm tưởng bao người.
Ước mong ống kính Hương Kiều Loan sẽ có một ngày trở về quê hương. Tôi tin chắc rằng Hương Kiều Loan sẽ lại có thêm những tác phẩm tuyệt vời…

* Những chữ in nghiêng đặt trong ngoặc kép là các “tiểu đề”
trong PPS “Dấu Tích Thương Đau”.

* Xin vào links bên dưới để xem PPS “Dấu Tích Thương Đau”:

[link=http://honque.com/HQ053/DauTichThuongDau_HKLoan.html]http://honque.com/HQ053/D..chThuongDau_HKLoan.html[/link]

Thứ Sáu, 13 tháng 3, 2015

Tấm Thẻ Bài


 Tấm Thẻ Bài  

image
 
Hoa Kỳ – 1970, 20 tháng Tư, Tổng thống Nixon tuyên bố sẽ rút 150.000 quân trong 12 tháng sắp tới giảm tổng số quân nhân Mỹ tại Việt Nam xuống 284.000 người. Phong trào phản chiến tiếp tục ở Mỹ.

image
 
Ngày 4 tháng Năm, sinh viên tại đại học Kent State bị Vệ binh Quốc gia bắn trong cuộc biểu tình. Ngày 9 tháng Năm, khoảng 80.000 người và 10 dân biểu quốc hội đã tham dự cuộc biểu tình phản chiến tại công viên Ellipse hay President’s Park South trước Nhà Trắng ở Washington, DC.

image
 
Chiến trường Việt Nam – Ngày 13 tháng Năm năm 1970, toán quân của Tiểu đoàn 3, Trung đoàn 1 Bộ binh, Lữ đoàn 11 Bộ Binh thuộc Sư đoàn Hoa Kỳ đang vượt qua cánh đồng vừa gặt, bất chợt súng nổ vang trời. Từ những lùm cây xung quanh, đạn và lựu đạn bủa xuống cánh đồng Việt Nam, nhắm thẳng vào toán quân Mỹ. Tiếng người bị thương kêu gào lẫn trong tiếng đạn, khói súng mịt mù. 

image
Người lính buồn ở mặt trận A Shau (1970, Việt Nam).
 
Anh, người lính cứu thương của Đại đội Tổng hành dinh, không vũ trang, vai mang túi thuốc, bổ nhào xuống mặt đất, lần theo tiếng rên la của đồng đội đã trúng thương cách đó cả 100 mét. Vẫn trên đường tìm đến bạn, một viên đạn địch đã xuyên da thịt anh. Không ngừng, dưới lằn đạn địch đang đan trên đầu, anh lại tiếp tục bò và chạy đến nơi, bó thương cho đồng đội. Đạn vẫn bay, súng vẫn nổ, và lại tiếng kêu trúng thương của một đồng đội khác; anh lại tiếp tục bò đi tìm bạn, một viên đạn khác lại tìm được thân thể anh; không ngưng nghỉ, dò theo tiếng kêu cứu, anh vẫn bò, kéo túi thuốc và khi chỉ còn 10 thước cách người bạn đang chờ thì đạn địch quân đã chấm dứt đời anh.

image
 
Anh là David F. Winder, binh nhất y tá không vũ trang của Đại đội chỉ huy, đã quên mình, dũng cảm hy sinh cứu đồng đội tại chiến trường miền Nam Việt Nam. Chính phủ Hoa Kỳ đã truy tặng cho anh Huy chương cao quý nhất của quân đội, Medal of Honor – Huy chương Danh dự. Năm đó anh 23 tuổi. 

Tháng Năm, 1970, David viết thư về Mỹ hẹn ngày sẽ gọi điện thăm hỏi gia đình. Đó là lá thư cuối cùng và từ đấy David không còn gọi điện về thăm nhà được nữa.

Mai trở về chiều hoang trốn nắng
Poncho buồn liệm kín hồn anh (*)
I will return on a radiant afternoon, avoiding the sun,
Wrapped tightly in a poncho which covers all my life. (**)

image
  David F. Winder
 
Sinh tại Edinboro, Pennsylvania, lớn lên ở Ohio, David chết tại chiến trường Việt Nam và an nghỉ ngàn thu tại nghĩa trang Mansfield, quận Richland, Ohio, nước Mỹ. 

***

Tháng 10, 2008 – 38 năm sau, ở Mount Airy, Philadelphia, một người đàn ông 60 tuổi, miệng ngậm píp, dáng điệu băn khoăn nhìn qua khung cửa như đang nóng lòng chờ đợi ai về...
 
Sài Gòn, tháng Sáu 2008 – Jess DeVaney, cựu quân nhân Thủy Quân Lục chiến, và khoảng hơn mười cựu chiến binh và người tình nguyện khác, thuộc tổ chức cựu quân nhân Tour Hòa Bình, trong hai tuần công tác đã mua lại được khoảng 200 tấm thẻ bài của những người hào hiệp hoặc ở các khu bán hàng kỷ niệm cho du khách đến Việt Nam.

image
 
Tour of Peace, trụ sở ở Tucson, Arizona, đã hoạt động 10 năm qua trong mục đích hàn gắn lại vết thương từ thời chiến tranh bằng cách trở lại các mặt trận cũ ở Việt Nam làm công tác từ thiện như xây giếng, lọc nước, phát tập vở bút viết cho học trò,… Đồng thời Tour of Peace cũng đi tìm lại vật dụng cũ của những người lính Mỹ ngày xưa đem về giao lại cho thân nhân và gia đình của họ. Nhóm Tour of Peace đã đem về lại Hoa Kỳ được 1940 tấm thẻ bài và đã tìm được và trao lại cho 580 gia đình tử sĩ Hoa Kỳ. 
Trong những thẻ bài đó, một tấm đã cong với vết rạn nứt in những hàng chữ số

image
“Winder David F. 
Số quân E 292 44 4402,
Máu A Cộng,..”

Sau vài tháng tìm kiếm khắp nơi, Tour of Peace đã tìm được người thân của binh nhất David Winder.
Joe Winder, người đàn ông ở Philadelphia, chính là thằng em thân thiết đã ở cùng phòng với David suốt thời niên thiếu. Joe không ngờ có ngày sẽ nhận được kỷ vật của người anh thương mến.

image
Cha Mẹ của David F. Winder
 
Thứ Ba, ngày 9 tháng 12, 2008 – Mount Airy, Philadelphia, người đàn ông 60 tuổi mở hộp nhung đen, cầm tấm thẻ bài rạn nứt, xoa nhẹ ngón tay trên hàng chữ David Winder F. và bật khóc.
Joe sẽ đeo tấm thẻ bài bên cạnh tim ông suốt khoảng đời còn lại.

image
Thẻ bài của Winder David F. trong tay người em, Joe Winder. 
 
Việt Nam – tháng 12, 2008, sau 33 năm ngưng tiếng súng, vẫn còn là một quốc gia yếu, nghèo, không dân chủ, kém văn minh. Trong 85 triệu con người đang sống ở đó và hơn 3 triệu người mang dòng máu Việt Nam đang ở rải rác khắp nơi từ Mỹ sang Âu sang Úc còn có rất nhiều người em, người con, người vợ, … đang mong đợi có ngày được như Joe Winder, được nhìn lại kỷ vật của người yêu, được về ngồi bên mộ cũ, được thắp nén nhang vọng tưởng người thương,… 

image
 
Hàng trăm ngàn người lính Việt Nam đã đổ máu, gục ngã cho quê hương nhưng mồ họ vẫn chưa yên, mả của họ vẫn lạnh tanh không hương khói. Tại sao? 

Những người lãnh đạo Cộng sản Việt Nam – không phải chỉ những người hôm nay – từ lâu rồi, từ bản chất, họ là những người không có lương tri, không có đến một iota lương tâm, đạo đức. Ngày nay, họ chỉ là những con buôn khoác áo Mác Lê rách nát – lúc thì họ buôn xương lính Mỹ khi thì họ buôn thân xác phụ nữ Việt Nam…

image
 

Ngàn sau người viết sử sách Việt Nam biết và sẽ công minh ghi rõ cáo trạng của người đã tuyên bố “Dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn,…” và đồng đảng bất lương của hắn.

Thứ Ba, 10 tháng 3, 2015

Việt Nam Nước Tôi



LI GII THIU

     Như mt nhân duyên tôđượđọc nhng tác phm c s ca s gia Phm Trn Anh, tôi đã tìm li Ci ngun ca Dân tc cũng như ca nn Văn Minh Vit C, nn móng căn bn dng nước ca T Tiên. Ci ngun nàđã b khng chế và đè bp bVăn minh Bái vt cĐại Hán”. Dòng đạo lý nguyên thy ca Vit tc là th tri thay vì th người như văn minh ca du mc phương Bc. Trt t ca xã hi Vit Nam là trt t ca thiên nhiên. Sau gn mt ngàn năm b Hán tc thng tr, k thù truyn kiếp ca dân tđã đem cái trt t Quân thđểHán hóa dân tc ta bng hình thc nô dch văn hóa. S xích hoá và nô dch văn hóa ca Hán tđã làm cho sinh mnh bn th ca văn minh, văn hóa Vit b vùi dp, lu m hàng ngàn năm qua. Đây là s mt mát khng khiếđã làm cho hn dân tc Vit lao đao lđận mãi cho ti bây gi, dù biết rng l trđất thnh suy, suy thnh cùng vi nhng thăng trm hưng phế ca lch s.

     Tôi đã đọc Vit Nam Nước Tôi sut mđêm mà lòng mình cm thy cha chan hnh phúc. Bao nhiêu câu hđặt ra mà tôc mãi vì không tìđược lý gii khiến tôi canh cánh mãi bên lòng đã được trình bày cn k sáng t. Lđầu tiên tôđượđọc mt quyn sách v lch s Vit vi nhng lý l thuyết phc nht v ngun ci dân tc nên hôm nay, tôi mun chia x vi tt c nhng người Vit nam yêu nước thương nòi v ngun ci dân tc.

     Bước sang thiên niên k th Ba ca nhân loi, cơ duyên vn nước sđổi thay nên s gia Phm Trn Anh đã đượđim hóđể viết nhng tác phđể phc hi s tht khách quan ca lch s, giúp cho chúng ta nhìn lKhuôn mt Ngàđời ca Nòi ging Vit ni trôi theo vn nước. Chính vì vy, tác phm ca s gia Phm Trn Anh được xem như mQuyn sách Gđầu giường không th thiếđược ca mt người Vit Nam yêu nước thương nòi, nht là các bn tr thanh niên sinh viên phi tìm hiu, nghin ngđể làm hành trang trên conđường cu quc và kiến quđể Phc Hưng đất nước Vit Nam.

     Điu tôi tâđắc nht là ông Phm Trn Anh là mt người yêu nước nng nàn, mt chiến sĩ đấu tranh cho dân ch t do dám hy sinh c tính mng mình cho dân tc. Tm lòng yêu nướđến cùng cc công còn th hin trong nhng tác phm lch s ca ông. Tht vy, s gia Phm Trn Anh đã khng định lp trường rõ rt khác vi nhng s gia t Trn Trng KimđếĐào Duy Anh là ông “ch dùng ch nhà cho nhng triđại ca Vit Nam vì nhà là cái gì thân thiết nht, gn gũi nht, cái gì ca mình nên không th dùng ch nhà cho các triđại Tu Hán như nhà Hán, nhà Minh, nhà Thanh mà các s gia trướđây thường dùng ba bãi ln ln”. Điu này chng t rng người tù bt khut Phm Trn Anh không ch là mt chiến sĩ cách mng đã đứng lêđấu tranh lđổ bo quyn Cng sn mà ông qu thc là mt nhà cách mng ngay trong lĩnh vc lch s. Tht vy, do nh hưởng vào sách s cũng như hc v nên ttrước ti nay, chưa mt s gia nào dáđặt li vđề, chưa dám xét li nhng gì ghi chép trong sách s dù có thy mt vài đim vô lýĐối vi lĩnh vc s hc, vic làm này xem như Phm húy”, liu lĩnh di dt dám phn bác chng li nhng Khuôn vàng thước ngc ca tin nhân t hàng nghìn năm nay. Thế nhưng, s gia Phm Trn Anh đã dám làđiđó để phc hi s tht lch s, Tr li nhng gì ca lch s cho lch s” làm cho mi người phđặt li vđề, gt b nhđịnh sai lm t trướđến nay v lch s ca dân tc Vit.

1. Th nht là s gia Phm Trn Anh đã phc hi s tht lch s v Cái gi là văn minh Trung Quc chính là nn văn minh ca Vit tc. Hc gi thi danh J Needham, mt nhà Trung Hoa Hc ngườđã nói: “S tht b che ph hàng ngàn năm cùng vnh hưởng ca ngàn năm thng tr nô dch văn hóa khiến ngay c người Vit cũng ng ngàng, không tin đó là s tht ….S gia Phm Trn Anh viết: “Ngũ Kinh không phi ca Hán tc mà chính là ca Vit tc. Sách Trang T k chuyn Khng T gp Lão T. Khng T nói: Khâu này ch kho cu sâu 6 kinh là Thi, Thư, L, Nhc, Dch, Xuân Thu. Như vy thi Khng T b Thi, Thư, L, Nhc, Dch, Xuân Thu đã có t lâu và được gi là Kinh. Chính b Trung Quc VăHc S doBc Kinh Đi hc, Trung văn h biên son viết rõ ràng là Tên gi Thi Kinh là do Hán Nho thêm vào. S gia chính thng Hán tc Tư Mã Thiên viết “Xưa kia, Thi vn có hơn 3 ngàn bài,đến Khng T ch ly 305 bài hp vi vic thc thi l nghĩa, đềđem ph nhc, c tìâm hp vi nhc Thiu, Vũ, Nhã, Tng.

     C văn Thượng Thư do L Cung Công con ca L Cnh Đế tìm thy khi phá ngôi nhà cũ ca Khng T để xây ct li ln hơn. Trong bc vách nhà có nhng sách c thi NguH,ThươngChuLun Ng, Hiếu Kinh đều viết bng ch c gi là Khoa ĐẩT” là li ch ca tc Vit theo hình con nòng nc. Sách Hán Thư, Thiên văn Ngh chí chéC văn Thượng Thư được tìm thy trong vách tường nhà Khng T. Khng An Quc, hu du ca Khng T trướđâđã biết b sách này có 29 thiên do Phc Sinh truyn, chưa k Thái Th còn tha ra 16 thiên, tính ra 45 quyn, 58 thiên không k bài ta... nay lđược thêm 16 quyn. Như vy, rõ ràng là Luận Ngữ, Ngũ Kinh có trước thi Khng T và được viết bng li ch KhoaĐẩu là li ch viết theo hình dáng ca con nòng nc ca Vit tc thi xa xưa. Li ch Nòng Nc ca người Vit c cùng vi nn văn hóa Hòa Bình đã lan truyn khp Trung Đông, góp phn to nên nhng nn văn minh c đại khác ca nhân loi.

     Thc tế lch s nàđược Hi ngh Quc tế các nhà Trung Hoa hc trên khp thế gii k c Trung Quc và Đài Loan hi thv Ngun Gc Nn Văn Minh Trung Quc tđại hc Berkeley Hoa K năm 1978 đã tha nhn là “Không th tìm ra đủ du vết chng c để phân bit gia Hán tc và các tc người không phi là Tàu trên phương din lch s. Gii nghiên cu phi tìm v du tích văn hoá mà v văn hoá thì Hán tc chnh hưởng ca Di Vit. Như vy, Di Vit làm ch Trung nguyên trước Hán tc và các triđại Thương, Chu tiếp thu văn hóa ca Di Vi phương Nam. Thc tế nàđã được chính Người Thy MuôĐời ca Hán tc là Khng T đã ca tng tính ưu vit ca nn văn minh rc r cBách Vi phương Nam. Trong sách Trung Dung Khng T đã viết như sau: Độ lung bao dung, khoan hòa giáo hóa, không báo thù k vô đạo, đó là sc mnh ca phương Nam, người quân t ng x nhưvy... Mc giáp cưỡi nga, xông pha giáo mác, đến chết không chán, đó là sc mnh ca phương Bc. K cường đạhành động như thế. Chính Hán HiếĐế cũng phi tha nhn: Giao Ch là đất văn hiến, núi sông un đúc, trân bo rt nhiu, văn vt kh quan, nhân tài kit xut nên s gia chính thng ca Hán tc là Tư Mã Thiêcũng đã phi tha nhn mt s thc làVit tuy gi là man di nhưng tiên khđã có đại công đức vi muôn dân vy.... Ngày nay, s gia hàng đầu ca Trung Quc là Trương Quang Trc (Chang Kwang Chih), đã phi tha nhn là tuy Trung Quc là mt quc gia ln vi mt nn văn hoá ln nhưng nó đã phi thâu nhp tinh hoa ca nhiu nn văn hoá hoá hp li: Nhng nn văn hoá địa phương thi tin s, sau khi thng nhđã tr thành mt b phn ca văn hoá Trung Quc. Ngun gc thc s ca Hoa Hán ch là phn nh nhưng sau khi triu Tn thng nht thì dân tc c nước thng nhy làdân tc Trung Hoa.
  
2. Th hai là trong lch s chưa mt ai dám phê bình Tư Mã Thiên, s gia chính thng ca Hán tc, mt ngôi sao BĐẩu trong lch s phương Đông nói riêng và c nhân loi nói chung. Sgia Phm Trn Anh là ngườđầu tiêđã chng minh mt cách khoa hc nht, thuyết phc nht rng nhân vt Hoàng Đế mà s gia Tư Mã Thiên viết là T Tiên ca nhân dân Trung Quc, người khai m lch s Trung Quc là không đúng s tht:Theo T Hi thì Hoàng ĐếLi Vư(Xuy Vưu) đều là nhng th tc trưởng nên s dĩ có chiến tranh là để giành ngôi v th lĩnh màthôi. Gđây, hc gi Eberhard mt nhà Trung Hoa hc ni tiếng đã công b mt s tht là vào khong năm 450 TDL, mt người viết s đã đưa Hoàng Đế nguyên là mt v thn nh trongđịa phn SơĐông lên làm v vua đầu tiên ca Hán tc. Nếu Hoàng Đế là mt nhân vt có tht thì Đế Hoàng  SơĐông phi là người Vit c, hu du ca Thn Nông. SơĐông là địa bàn cư trú ca Lc b Trãi ca Vit tc mà c s Trung Quc gi là r Đông Di nên v thĐế Hoàng chính là người Vit c nhưng s gia Tư Mã Thiên nhn là thy t ca người Trung Quc (Hán tc) để tô đim cho lch s Trung Qunên viết Đế Hoàng theo cú pháp Hán t là Hoàng Đế.

     Mnh T xác nhn vua Thun là ngườĐông Di và t đin T Hi cũng xáđịnh là t tiên và con cháu Thuđềđược phong  đấĐông Di. Thế mà Tư Mã Thiên, s quan chính thng Đại Hán li bao bin cho rng Thun b xem là ngườĐông Di vì thói quen hđó gi là như thế. Luđiu này không có tính cách thuyết phc. Ti sao li có thói quen gi mt ngườiđồng chng nht là mt v vua là r Đông Di? Chính bn thân Tư Mã Thiên ch can gián vua mà đã b t“Cung Hình” phi ct b b phn sinh dc hung chi gi vua là man di mi r, chc chn phi b tru di tam tc!”.

3. Th ba, s sách Trung Quc ghi Tam Hoàng Ngũ Đế là không đúng mà thc ra ch có nh hoàng là Phc Hy, Thn Nông. Truyn thuyết khi nguyên dân tc k li là dòng Thn Nông phương Bc như Đế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng, Đế Hoàng, Đế Xuyên Húc, Đế Cc, Đế Nghiêu, Đế Thun, Đế Vũ lp ra nhà H trướđây sách s ghi là ca Trung Quc mà s tht làca Vit tc. Vit Nam Nước Tôi viết: Theo các nhà Tin S hc thì Malayo-Viets tc Bách Viđã định cư  Trung Nguyên cách đâít nht là 6 ngàn năm hoàn toàn phù hp vi niêđại trong huyn s ghi rng h Phc Hy làm vua t năm 4.480 đến 3.220 TDL và h Thn Nông làm vua t năm 3.220 TDL đến năm 3.080 TDL. Thi Xuân Thu là thi k phc hưng ca Vit tc vi s tri dy ca các quc gia Bách Vit, hết Ngô đến Vit xưng Bá” ri ti S lãnh đạo liên minh 6 nước trung nguyên chng Tn giành quyn thng lĩnh trung nguyên. Chính vìvy, thi k này mi xut hin các nhân vt huyn s Vit t Phc Hy, N Oa, Thn Nông, Đế Hoàng (Hoàng Đế) tĐế Xuyên Húc, Đế Cc, Đế Nghiêu và Đế Thuvà Đế Đại Vũ nhàH ca Vit tc. Chính Khng T, ngườđược xem là “Vn Thế Sư Biu”, bc thy muôđời ca Trung quc cũng biết rõ điu này nên chưa h nhc ti nhân vt Hoàng Đế ca Trung Qumc dù Khng T đã xác nhn rõ là theo phò triu Chu. Trong các tác phm C S Kho, Tam Ngũ Lch, Đông KĐế Vương Thế K thì tt c đều khng định rng Thn Nông cóliên quan huyết thng vi Vit tc. Nói cách khác, Vit tc chính là hu du ca Thn Nông. C thư Trung Quc chép đời Nghiêu Thuđánh dp h Cng Công (Hán tc) vì đã tranh ngôi vi Chúc Dung là hu du cĐế Viêm Thn Nông. Vua các nước Trnh và hoàng tc mt s nướ báđảo SơĐông như T, L, Trđều nhn h là con cháu Thn Thái Sơn và ly h Khương ca Thn Nông. Như vy, Thn Nông h Khương định cư  đất Khương  phía Tây nên s TQ viết là Tây Khương đúng như truyn thuyết k li là cháu ba đời ca Thn Nông là Đế Minh đi tudu phương Nam...    

4. Th tư, s gia Phm Trn Anh đã dn chng công trình kho c hđể chng minh dòng Thn Nông phương Bc gĐế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng cho tới nhà Hạ là ca Vit tc. Tht vy, lch s vn là lch s “Chết cứng” trên ngun thư tch, thế nhưng mt khi nhng s kin lch s nàđược các công trình kho c khai quật thì trở thành lịch sử “Sống động”. Khảo cổ học chng minh qua nhng di ch, hin vt cũng như niêđại kho c được xáđịnh bng phương pháđồng v C 14 thì s kin này là một sự thật lch s sng động, có giá trthuyết phc mà không mt lun c nào có th phn báđược. Vi phương pháp phóng x C14, các nhà kho c đã xác minh được nhng người Ngưỡng Thiu, Long Sơn thuc chng Mongoloid  phương Nam nên chúng tôi gi là Hoabinhoid => Hoabinhian => Protoviets (Tin Vit) => Malayo-Viets = Bách Vit (Bai-Yue) mi chính xác. Kết qa phân tích mã di truyn DNA cho biết người miĐông và min Nam Trung Quc hin nay có cùng DNA vi người Vit Nam và c cư dâĐông Nam Á na. Chng c kho c nàđã phc hi s tht lch s lànhà H trong lch s Trung Hoa là ca Vit tđã định cư  vùng sông Bc mà truyn thuyết k là ngành Thn Nông phương Bc gĐế Nghi, Đế Lai, Đế Du Võng đã tái hp cùng ngành Thn Nông phương Nam đi lêđã thành lp các triđạĐế Hoàng, Đế Nghiêu, Đế Thun và Đế H Vũ nhà H.

5. Th năm, s gia Phm Trn Anh là ngườđầu tiên lý gii truyn thuyết khi nguyên dân tc mt cách rõ ràng nht, đầđủ nht, trong sáng và thuyết phc nht ch không còn hoangđường huyn hoc như chúng ta vn hiu t trướđến gi. Thế là truyn thuyết t ch U u minh minh đã tr thành Minh minh ch không còn u u minh minh như trước na. “Vi tt c tm lòng và tháđộ trân trng nghiêchnh và vi phương pháp nghiên cu huyn thođể t đặt mình vào hoàn cnh lch s thi c đại thì nhng ý hàm tàng trong huyn thoi sgi m sáng t, minh nhiên lý ginhng gì n tàng trong bc thông điHuyn Thoi ca tin nhân gi gm cho thế h chúng ta. Ý nim trng trong huyn thoi biu trưng Totem vt linh biu trưng ca Vit tc là tc người th chim là mt con vđứng đầu trong t linh: nhđiu, nhì ngư, tam xà, t tượng. Vì vy, vic M Âu Cơ mà vt t biu trưng là chim thì vic mÂu sinh ra trăm trng n ra trăm người con trai trên bình din tâm linh là bình thường không có gì đáng ngc nhiên c…”.

6S gia Phm Trn Anh đã chng minh niên đại ca truyn thuyết v Thn Nông vào thiên niên k th IV TDL hoàn toàn phù hp vi niêđại kho c và kết qu đo ch s s ca các nhà Kho Tin S v chng Hoabinhian-Proto-Viets => Indonesian (Malaysian => Malayo-Viets = Bách Vit (Bai-Yue). Theo các nhà Tin S hc thì Malayo-Viet tc Bách Viđã định cư Trung Nguyên cách đâít nht là 6 ngàn năm. Công trình nghiên cu s hc ca hc gi Shi Shi người Trung Quc thì người U Vit (Gu-Yueđã làm ch bin c cách đây hơn 7 ngàn năm.Đặc bit, truyn thuyết k li rng b Lc dn 50 con v Thy Ph,” trướđây chúng ta cho là huyn hoc thế nhưng địa danh thy ph đã được 2 hgi người Pháp là P Gouron và J Loubet tìm ra, đó chính là cng Thành Đô, ph Trùng Khánh tnh T Xuyêđược in trên bđồ Atlas 1949. S tht lch s nàđã được chính ngun sách s c Trung Hoa xác nhn khi chép v cng đồng Bách Vit, đã chng minh s tht lch s ca huyn thoi mà ta c tưởng là huyn hoc hoang đường. Truyn thuyết khi nguyên dân tđã được chính thư tch cTrung Quc tha nhn s thành lp ca các quc gia thi Chiến quc mà h gi là Bách Vi vùng Giang Nam. Đông Vit tc U-Vit ca Vit Vương Câu Tin không ch  Triết Giang mà lên ti min Giang Tô tc Châu T, quê hương ca gm s Vit c ni tiếng ca chi Dương Vit mà kinh đô là Ci Kê. Lý Tế Xuyêđã viếViĐin U Linh v nước Vit c xưa. Mân Vi Phúc Kiến, Dương Vi Giang Tây, Đin Vi Vân Nam, Qu Vi T Xuyên, Nam Vi Qung Đông, Âu Vit còn gi là Tâ Qung Tây, Lc Vitri dài tĐông Bc Trung Quc xung ti Qung Tây và Bc Việt Nam. Chính sách s c Trung Quc ghi rõ cng đồng Bách Vit cư trú khp trung nguyên, thế mà s quan triu Thanh Tin Hy T đã bóp méý nghĩa và sa li niên hiu thành lp nước Văn Lang như sau: Đếđời Chu Trang Vương (696-682 TDL)  b Gia Ninh có người l dùng o thuáp phđược các blc, t xưng Hùng Vương, đóng đô  Văn Lang, hiu là nước Văn Lang. Phong tc thun hu, cht phác. Chính s dùng li tht nút. Truyđược 18 đờđều gi là Hùng Vương.

    Trước nhng s tht ca lch s, Trung Quđã phi xác nhn là nn văn hoá ca h là do hàng trăm dân tc góp phn to dng nhưng văn hoá Há vùng Tây Bc là ch th. Thếnhưng chính hc gi Trung Quc Wang Kuo Wei li cho rng nơi phát nguyên văn hoá Trung Quc là  miĐông Bc tc vùng SơĐông ca Lc b Trĩ ch không ph min Tây Bc (ThiTây) như quan nim sai lm t trướđến nay. Thế mà các nhà s hc Mác Xíđã viết s rp khuôn s quan triu Thanh và theo ngh quyết cđảng Cng SViNam vs thành lp nước Văn Lang trong b Lch s Vit Nam ca Nhà nước Cng Hòa Xã HCh Nghĩa Vit Nam như sau: S ra đời ca nhà nước Văn Lang đầu tiên ca nước ta đời Hùng Vương và Âu Lđời An Dương Vương vào giai đoĐông Sơn trong thiên niên k th I trước công nguyên Căn c theo 15 b ca nước Văn Lang và nht là căn c vào quá trình chuyn hoá lch s nước Văn lang đời Hùng Vương đến nướÂu Lđời An Dương Vương, rđến 2 qun Giao Ch, Cu Chân thi thuc Triu và thuc Hán, có th xáđịnh địa bàn ca nước Văn Lang tương ng vi vùng Bc b, Bc Trung b nước ta ngày nay và mt phn phía Nam tnh Qung Đông, Qung Tây ca Trung Quc . Trên thc tếđịa bàn cư trú ca tc Vit màsách s c Trung Quc ghi là các quc gia Bách Vi ri rác khp lãnh th Trung Quc bây giCác nhà s hc Mác Xít theo quan đim cđảng Cng SViNam đã c tình sao chép nguyên văn nhng xuyên tc, kéo lùi niêđại thành lp Văn Langxác nhn lãnh th ca Văn Lang ch bao gm phn lãnh th ViNam hin nay và 1 phn phía Nam tnh Qung TâTrung Quc. Đây chính là mt hành động bán nước, phn bi li công lao ca vua Hùng và xương máu ca biết bao thế h tin nhân. Vic sđổi lch s để hp thc hótoàn b lãnh th Văn Lang xưa mà Hán txâm chiếlà mt tác “Thn Ngườđều căm hn, TrĐất chng dung tha” ca tđoàn Vit gian bán nước, tđồ muôđời ca dân tc.

7. Cui cùng, s gia Phm Trn Anh đã dn chng mt s tht lch s mđược khoa hc xác nhphân tích cu trúc di truyn DNA ca Vit tđã xáđịnh mt ln na là Vit tc làmđại chng và hoàn toàn khác bit vi Hán tc đã làm sáng t vn nan khúc mc t ngàn xưa. Tôi trân trng cáơn s gia Phm Trn Anh đã dày công nghiên cđể hôm nay chúng ta có mt b s vi nhng chng c khoa hc nht, thuyết phc nht, đầđủ nht và hích nht cho thế h con em Vit Nam chúng ta.

 Nguyn Anh Tun (Tiến sĩ Khoa hc Chính Tr)

@
Xem "Việt Nam Nước Tôi" online: