(Thị Nở và Chí Phèo)
Lời giới thiệu:
Không hiểu cuốn sách “Người Trung Quốc xấu xí” của Bá Dương (“Bo Yang”) được xuất bản
cách đây gần hai chục năm có liên quan gì đến sự phát triển mạnh mẽ của Trung Quốc hôm
nay hay không?
Tuy nhiên, hình như có nhiều liên quan giữa sự can đảm nhìn nhận ra những yếu kém của
chính mình và sức vươn lên mạnh mẽ cho dân tộc (!)
Ở hoàn cảnh Việt Nam, đã gần một thế kỷ rồi, thế hệ cha ông của chúng ta cũng đã có rất
nhiều người dám vạch thẳng những tính xấu, những hủ tục của người Việt mình để biết mà
sửa đổi (!) Nhưng mà không thấy có ai chịu nghe??? Để xét cái kết quả (“không khá”) này,
cứ việc nhìn vào hiện tình dân tộc Việt ở trong nước lẫn ở hải ngoại; cứ nhìn vào chính bản
thân mình, đồng bào và các tổ chức / hội đoàn chung quanh mình chứ chẳng cần tìm đâu
cho xa! Đến lúc này, thế hệ chúng ta, giữa những thay đổi lớn lao đang và vừa mới xẩy đến
cho dân tộc chúng ta, giữa khát vọng phục hưng dân tộc… đây là một cơ hội thật tốt để
cùng nhau đọc lại những nhận định mà các vị tiền bối đã viết về những cái xấu xa của người
mình và rồi tự đặt câu hỏi cho bản thân và cộng đồng của mình phải làm gì để cho dân tộc
mình khá hơn?
“Còn trời, còn đất, còn non nước.
Có lẽ ta đâu mãi thế này …”
(Nguyễn Công Trứ - “Quân tử cố cùng”)
Trần Văn Giang
@
1- Chơi bời lãng phí
Trần Chánh Chiếu
(“Lục tỉnh tân văn,” năm 1907)
Theo tục ông bà để lại, hễ mãn một năm thì ăn Tết một lần ấy cũng là phải. Sao tôi thấy hễ
tới ngày ấy, ai ai cũng đốt pháo, dựng nêu, treo bùa tứ tung ngũ hoành, đánh đáo đánh
quần tới bảy bữa, rồi nào me, nào lú (1), bài cào, xóc đĩa, tổ tôm đủ thứ. Thậm chí có ông
ăn Tết rồi thì bán nhà bán cửa, nợ réo trước nợ réo sau. Đã “bần nhược” (2) lại “đãi đọa”
(3) vậy thì biết chừng nào mà giàu có như người ta đặng?
——————
(1) Theo Huỳnh Tịnh Của, “Đánh me” là "gây ăn thua trong cuộc chơi tiền,” còn “Lú” là
"cuộc chơi con nít dùng tiền mà đánh đố.”
(2) Nghèo đói.
(3) Biếng nhác.
2- Ở đâu cũng thấy học đòi làm dáng
Hoa Bằng
(“Hiếu thượng,” Tri tân, năm 1943)
Cái hiếu thượng (1) của số đông người mình đã lộ rõ ở từ ngôn ngữ đến cử chỉ, từ hành vi
trong gia đình đến động tác ngoài xã hội. Người ta chơi câu đối? Phần đông không phải vì
thích chữ tốt yêu văn hay nhưng vì muốn sĩ diện ở mấy cái lạc khoản (2) có chức tước.
Người ta in danh thiếp; Không phải vì cốt thông tính danh tỏ địa chỉ, song hình như chỉ cốt
trưng những chức sắc tước trật và phẩm hàm. Người ta đăng cáo phó; Có lẽ ít vì cốt để báo
tang, nhưng phần nhiều cốt để lợi dụng cái chết của ông bà cha mẹ mà quảng cáo cái danh
phận của con cháu.
Cái bệnh hiếu thượng ấy truyền nhiễm đến cả nữ giới làm cho lắm người cũng mắc lây. Một
dạo ở xã hội ta nổi lên cái phong trào “phi cao đẳng bất thành phu phụ.” Vì thế trong cuộc
hôn nhân đã xảy ra lắm chuyện buồn cười. Hoặc mượn văn bằng của người khác để đưa
nhà gái sát hạch lúc cầu hôn, hoặc giả làm nhà tòng sự (3) suốt mấy tháng để nhà gái nếu
có dò la vẫn thấy sớm vác ô đi tối vác về...
——————
(1) Thích hướng lên trên, tức hiếu danh, bon chen...
(2) Tự đề tên họ chức tước ở một góc câu đối.
(3) Làm công chức.
3- Học vấn một đằng, công nghệ một nẻo
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm 1915)
Tính người mình không biết quý trọng công nghệ, người làm nghề tựa hồ như bất đắc dĩ
không học được làm quan chẳng lẽ ngồi khoanh tay chịu chết mới phải xoay ra làm nghề
thôi. Mà làm nghề thì không cần gì tinh xảo chỉ cốt bán rẻ tiền được nhiều người mua là
hơn. Công nghệ suy nhược lại còn là vì người có học thức không chịu làm, người chịu làm
thì lại là người không có học thức, chẳng qua chỉ theo lối cũ nghìn năm xưa chớ không nghĩ
được cách thức nào mới.
Ít năm nay, có trường bách công dạy dỗ, có lắm lời tân học cổ động thì cũng đã tỉnh ngộ ra
ít nhiều và cũng đã có người sinh được nghề khéo, học được nghề mới tranh được lợi buôn
bán. Song cái tính khinh đường công nghệ thì vẫn chưa bỏ được. Có người nhờ công nghệ
mà nên giàu có song vẫn tự coi mình là đê tiện, phải mượn cái phẩm ông Hàn ông Bá mới là
vẻ vang.
4- Khéo tay mà trí không khôn
Phạm Quỳnh
(“Pháp du hành trình nhật ký,” năm 1922)
Xét ra ở nước Nam ta mới có các nghề mỹ nghệ là thịnh, phàm nghề khéo toàn là các nghề
trang sức cả, còn mỹ thuật thì chưa có gì sánh được với các nước, nhưng ngay trong mỹ
nghệ cũng chưa có kỷ luật, chưa có thể thống gì, chưa phân rõ các kiểu cách, các thời đại,
các lề lối, các phương pháp, thợ thuyền phần nhiều là những người vô học, phi quen tay
phóng lại lối cũ, thời bắt chước chép của người ngoài, thành ra tay có khéo mà trí không
khôn, không biết biến báo mà vẫn giữ được tinh thần cốt cách cũ , tồn cổ mà khéo ứng
dụng về đường sinh hoạt mời, nói tóm lại là không có trí sáng khởi (1) khôn ngoan, gây ra
trong mỗi nghề một cái thể thức trang nghiêm mà đặc biệt. Cho nên các nhà nghề ta không
thể bằng cả ở cái tay khéo được, cũng phải tập cho có cái trí khôn nữa.
Nay muốn gây lấy cái trí khôn ngoan trong mỹ nghệ, khiến cho có tinh thần có thể thức, thời
không gì bằng lập ra một nhà bảo tàng mỹ nghệ, sưu tập lấy những đồ đẹp trong nước,
chia ra từng thời đại, bày cho có thống hệ (2), để cho những nhà nghề đến đấy mà xem, mà
học cho biết nghề mình duyên cách (3) thế nào, thể cách làm sao, rồi hoặc trông đấy mà
giữ lấy cái cốt cách tinh thần cũ, hoặc nhân đấy mà biển đổi dần
——————
(1) Bắt đầu dựng lên, ngày nay hay viết là “sáng tạo.”
(2) Quan hệ của những cái liên tiếp nhau. Cũng nghĩa như hệ thống.
(3) Duyên (có khi đọc diên) ở đây là thủ cựu, cách là đổi mới. “Duyên cách”: Tình hình trong
một khu vực nào đó cái cũ thế nào, cái mới ra sao.
5- Thiếu tinh thần cầu học
Nguyễn Văn Tố
(theo Lê Thanh, “Cuộc phỏng vấn các nhà văn,” năm 1943)
Phải nhận rằng người mình không ham học mấy. Thí dụ như người đỗ bằng tốt nghiệp, có
công ăn việc làm thì thôi, không chịu học thêm. Tôi cho thế là nhầm lắm. Người ta dạy cho
bấy nhiêu là để cho mình tạm đủ sức mà học lấy, khi ở trường ra mắt là chỗ khởi hành, mình
lại tưởng đến nơi rồi. Nếu tôi được phép, tôi sẽ khuyên anh em thanh niên học rõ nhiều,
vừa đọc văn Tây, vừa học lại tiếng ta, vì phần đông người ta mà viết văn ta còn sai nhiều.
6- Mô phỏng đã thành thói quen
Hoa Bằng
(“Phải có cái gì để làm đặc tính của người mình chứ.” Tri tân, năm 1941)
Hết thảy mọi phương diện, chẳng hạn, từ văn học tới nghệ thuật - chúng ta đều ăn của
người, nhưng đã biết hóa để làm của riêng của mình chưa?
Bình tĩnh mà xét, từ hình thức đến tinh thần ta nay cũng có một đôi phần tiến. Nhưng cái óc
mô phỏng hay còn rõ sờ sờ trung hết thảy mọi mặt.
"Chúng ta phải làm con cháu của cổ nhân chứ không nên làm nô lệ của cổ nhân.” Đối với
cổ nhân ta nay còn phải dè dặt thay, huống chi đối với gió bốn phương, há lại nên bạ chiều
nào che chiều ấy?!
7- Kiếp người bấp bênh văn chương sầu não
Nguyễn Văn Huyên
(“Văn minh Việt Nam,” năm 1944)
Sự đơn điệu tẻ nhạt của cảnh sắc thiên nhiên, tính chất chu kỳ của thiên tai, sự cách biệt
của các nhóm người, sự phân chia nam nữ, nền giáo dục khắc nghiệt và khô khan khiển
người Việt thiên về u buồn và sầu não.
Cá nhân bị giam hãm một cách chặt chẽ và giả tạo trong những khuôn khổ cứng ngắc như
gia đình và làng mạc đến nỗi họ không quan niệm nổi họ có khả năng hành động một mình.
Vì thế khi môi trường chung quanh không còn giữ họ lại bằng những mối ràng buộc thông
thường mà lễ giáo quy định, người ta dễ đắm mình vào những bài hát buồn bã u sầu, khiến
mọi nỗ lực trí tuệ tiêu tán.
Nền văn hóa vốn thấm nhuần lòng từ bi Phật giáo cũng góp thêm phần dồn nén các dục
vọng cá nhân. Rồi quan niệm siêu hình của đạo Lão khiển nhiều tác giả thiên về một cái
nhìn bi quan sâu sắc và một sự mỉa mai chua chát. Chinh phụ ngâm, Cung oán ngâm, Thu
dạ lữ hoài ngâm cũng như các tác phẩm của Trần Tế Xương, Nguyễn Khắc Hiếu… chỉ là
những tiếng vọng của nỗi đau nhân loại. Trong nhiều tác phẩm khác, ta luôn luôn thấy cùng
những đề tài giống nhau về nỗi đau khổ, ước mong và hối tiếc, phản ảnh tất cả sự dồn nén
tinh thần của cá nhân, hoặc gần như vậy, sự sợ hãi muôn thuở của một kiếp người bấp
bênh, một cuộc sống chật hẹp.
8- Một nền nghệ thuật thiếu tư tưởng
Hoài Thanh
(“Có một nền văn hóa Việt Nam,” năm 1946)
Trong lịch sử ta biết bao thế hệ nhà Nho kế tiếp nhau mài miệt trong sách vở của thánh
hiền mà nào có sáng tác được gì đâu.
Ta không có một nền quốc học nếu quốc học là học thuật riêng của nước. Trải qua mấy
ngàn năm lịch sử ta cơ hồ không có sáng tác gì về học thuật. Ấy cũng vì ta kém óc trừu
tượng khái quát, điều kiện căn bản để phát minh về tư tưởng.
Người phương Tây rất ngạc nhiên thấy ta hôm qua chỉ biết có “Tứ thư Ngũ kinh” mà hôm
nay bỗng tin theo những thuyết rất mới mẻ, rất cấp tiến của khoa học hiện kim. Họ không
biết rằng học thuật tư tưởng không phải là những căn bản tinh thần của dân tộc ta. Tư
tưởng nào có lợi cho đời sống của dân tộc thì ta theo, nhưng một khi tình thế đổi thay, tư
tưởng ấy trở nên có hại cho đời sống chung, ta sẽ trút bỏ dễ dàng không tiếc hối.
9- Đằng sau thói quen đẽo gọt là sự nhu nhược
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm 1915)
Văn chương gọt từng tiếng khác nào như người gọt củ thủy tiên, cái lá này bắt cho quăn,
cài giò kia hãm cho thấp trông thì hoa nở đều nhau đẹp đẽ nhưng động vào đã gãy, để
chưa mấy ngày đã úa. Cốt lấy cái khéo nhỏ nhặt làm mất đi cái khí mạnh, gọi là "nhu nhược
chi văn chương!"
10- Xu thế trang sức quá nặng
Đào Duy Anh
(“Việt Nam văn hóa sử cương,” năm 1938)
Nghệ thuật Việt Nam thường bị bó buộc trong lề lối cổ. Phải tôn trọng những phép tắc xưa,
cho nên nhà nghệ tài giỏi mấy cũng chỉ phỏng lại những hình thức có sẵn cho khéo, chứ
không được theo tự ý mà sáng kiến những cách thức mới.
Nhà nghệ thuật Việt Nam không phải là người biểu diễn ý chí tâm tình của mình, cũng không
phải người quan sát và biểu hiện tự nhiên mà chỉ là người giỗi bắt chước những kiểu mẫu
sẵn. Có muốn hơn người thì họ chỉ cốt ra tay cho khéo cốt làm cho thật tỉ mỉ, thật tinh tế,
thật dụng công, chỉ cốt xếp đặt các bộ phận cho xinh xắn lộng lẫy.
Tính chất đặc biệt của nghệ thuật Việt Nam là tính trang sức. Nó thiếu hẳn hoạt khí, vì cách
biển hóa tuy lưu động mà ở trong phạm vi hình thức, cách phối hợp tuy phiền phức mà ở
trong phạm vi thái độ chế kiểu.
11- Lối tính toán thiển cận
Lương Dũ Thúc
(“Nông cổ mím đàm,” năm 1901)
Cách đại thương (1) là có gan làm giàu. Coi người ta phí (2) là bao nhiêu tiền bạc mà không
sợ mất, là vì người ta tiên liệu đại lợi, kể chi sự phí. Chớ như người bổn quốc ta, muốn cho
thấy trước mắt có lợi mới chịu làm. Nếu đem đại thương mà sánh với bán hàng bông (3) thì
bán hàng bông ắt thấy lợi trước mắt, hễ mua sớm mai thì chiều thấy lợi, còn mua chiều sáng
thấy, chớ như đại thương thì ít nữa là năm năm còn nhiều hơn là mười năm mới thấy lợi.
Song so lợi dễ thấy thì là lợi ít, cái lợi mà lâu thấy thì thật lớn lắm.
Người nước nào đều có ngay gian xấu tốt, họ không phải là tiên phật chi hơn mình, song họ
làm rồi thì quen, còn người mình không làm, nên cứ nghi hoặc hoài mà thôi.
——————
(1) Buôn bán lớn.
(2) Bỏ tiền của ra sử dụng.
(3) Bán hoa quả bông trái.
12- Mê tín gây nhiều lãng phí
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm 1915)
Lễ kỳ (1) an chủ ý là trừ khử ma quỷ cho dân xã bình an. Ta lại tin theo Phật thuyết (2), bày
ra vàng mã, nào mũ Ngọc Hoàng, nào tượng Minh Vương, nào âm quan quỷ tốt, chiến khí
binh tiền được việc cũng cam, nhưng nào có được việc gì đâu, rút lại chỉ tại ta tin nhảm.
——————
(1) Kỳ đây là cầu, cầu an..
(2) Theo tôi (người viết / Trần Văn Giang) Cụ Phan Kế Bính có lẽ hiểu lầm (!?) Phật thuyết
của Phật giáo về vấn đề đốt vàng mã, mũ Ngọc Hoàng v..v... Đốt vàng mã không phải là sản
phẩm của Phật giáo mà là sản phẩm của mấy ông nhà Nho Trung Hoa truyền sang Việt
Nam dưới thời Việt Nam bị đô hộ. Một số các thầy "cúng," những người nầy không phải là
các Sư Tăng đạo Phật, vẫn còn dùng cái hủ tục mê tín dị đoan này vì nhiều người Việt nẫn
còn tin!
13- Không ai chuyên nhất việc gì
Tân Việt (*)
(“Mỗi người một việc” - Đông Pháp thời báo, năm 1928)
Các nước phú cường, người nào làm việc gì. Nhà khoa học lo cả đời phát minh, người làm
giàu thì cứ việc làm giàu. Còn nước ta thì không thế. Một người làm năm bảy việc, trong khi
làm bầu gánh hát bộ, lại có xuất bản một cuốn tiểu thuyết ái tình, lại có mở một cửa hàng
tạp hóa, ít lúc chi đó lại vọt xuống tàu sang Pháp làm chính trị.
Người ngoại quốc thấy vậy, cho rằng chúng ta có lòng ham hố quá, hoặc cho rằng không
có đức chuyên nhất, không có tính nhẫn nại.
——————
(*) Một bút danh mà Diệp Văn Kỳ và Phan Khôi ký chung trên Đông Pháp thời báo 1928
(theo Lại Nguyên Ân). Nghe giọng (văn phong) thì người viết ở đây có lẽ là Diệp Văn Kỳ (?)
14- Dễ dãi trong tiếp nhận nên hỏng việc
Phạm Quỳnh
(“Giải nghĩa đồng hóa,” Nam Phong, năm 1931)
Người An Nam vốn có cái thiên tính dễ đồng hóa (1), dễ am hiểu, dễ thu nạp lấy những cái
khác lạ với mình, dễ đem những điều hay điều dở của người mà hóa (2) làm của mình,
nhưng cái tài đồng hóa đó thường thường chỉ là cái khóe tinh (3), biết xem xét và bắt chước
của người, chỉ phảng phất ở bề ngoài chứ không thấu triệt được đến chỗ căn để (4) chỗ
tinh túy.
Tỷ như thợ An Nam thì phóng chép tài lắm, những hình dáng kỳ đến đâu, những kiểu cách
lạ đến đâu, họ cũng bắt chước được như hệt cả.
Học trò ta học rất mau, nhớ cũng rất mau, nhưng chưa chắc đã hiểu thấu đã hóa được
những cái người ta dạy mình.
Một người trí não khô cạn hay là vì không được tiêm nhiễm những cái tinh hoa của nòi giống
mà thành ra khó cạn đi - một người như thế không thể không thể nào hiểu thấu được cái
tinh thần của Tây phương. Có đồng hóa chỉ đồng hóa được cái bề ngoài, chỉ bắt chước
được cái hình thức.
Cái cách đồng hóa dễ dàng thô thiển đó thiết tưởng không phải là cái tính tốt, mà có thể
cho là cái tính xấu được. Chưa chắc cái học tiếp thu được dễ dàng như vậy đã làm cho óc
được khôn ra, người được chín ra chút nào.
Đồng hóa một cách cấp tốc, một cách vô độ há chẳng phải là hại hơn lợi?
——————
(1) Tiếp nhận.
(2) Biến cải.
(3) Ngón nghề, mánh lới.
(4) Gốc rễ, cơ bản.
15- Quá tin ở những điều viển vông
Phan Bội Châu
(“Cao đẳng quốc dân,” năm 1928)
Mê tín sinh ra những việc nực cười. Ngày giờ nào cũng là trời bầy định mà bảo rằng có
ngày dữ ngày lành, núi sông nào cũng là đất tự nhiên mà bảo rằng có đất tốt đất xấu, vì nấu
ăn mới có bếp mà bảo rằng có ông thần táo, vì che mưa gió mới có nhà mà bảo rằng có
ông thần nhà, cho đến thần cửa thần đường, thần cầu tài, thần cầu tử, trăm việc gì cũng
trông mong vào thần, kết quả thần chẳng thấy đâu, chỉ thấy những cửa nát nhà tan, của
mòn người hết, tin thần bao nhiêu thì tai họa bấy nhiêu...
16- Tầm thường hóa những giáo lý sâu xa
Phan Kế Bính
(“Việt Nam phong tục,” năm 1915)
Phật giáo là một tôn giáo riêng, cũng có lý tưởng. Mà lời thiện ác báo ứng cũng đủ khuyên
răn người. Nhưng hiềm ta không cứu (1) đến nguyên lý mà chỉ tin những lời trần hủ (2),
sùng tín cái vỏ xác ngoài còn cái lý cao xa của người ta, không mấy người nghĩ đến. Đã
không ích gì, mà làm hại của cải cũng chỉ bởi lòng tin sai vậy.
——————
(1) Xét đoán, tra hỏi.
(2) Cũ kỹ, không hợp thời
17- Vớ được sách nào theo sách ấy
Nguyễn Văn Vĩnh
(“Hương Sơn hành trình,” Đông Dương Tạp chí, năm 1914)
Có kẻ sáng ngày ra vào phủ thờ bà cô, ông mãnh nào, chiều lại vào làm tôi con ông Trần
Hưng Đạo là thần hay trị những tà ma, những ông hoàng bà chúa. Đến sáng hôm sau cũng
người ấy có thể chay lòng thực dạ mà nghe giảng những lời đạo đức của ông Khổng, ông
này không có dạy phải tin thờ ông thần ông thánh nào cả hoặc là đi lễ Phật là một đạo trái
hẳn với mọi ma thiêng thần dữ.
Nói rút lại, thì người An Nam ta tin bậy hình như theo lý tưởng này: Dẫu không có mà tin
cũng chẳng hề chi, ngộ có mà không tin, có lẽ hại đến mình. Cho nên cứ tin liều đi.
Người ta theo lý tưởng ấy cho nên sinh ra những đạo không có tôn chỉ, quy tắc pháp ở
trong tay mấy anh sư mô, thầy cúng, ngày nay làm theo sách này, ngày mai bịa ra sách
khác, có ngược nhau cũng chẳng ai bảo sao. Mà người tin, người tộc trưởng, người làm lễ
tang lễ hỷ, cũng cứ tùy bện mà theo, vớ được sách nào theo sách ấy, tùy cách lịch sự tùy
gia tư (1) mà theo lễ này hay lễ kia, chứ không theo tôn chỉ nào cả.
Còn như sự đi chùa Hương và các chùa chiền khác, nhiều người cho như một cái tật của
các cụ già và của người đàn bà. Cũng có kẻ bảo là việc hay, cũng có người cho là việc dở.
Hay là vì các bà các cô đi lễ bái như thể nó cũng thêm được cái dáng đạo đức, cái nếp nhà
ra một chút. Dở là vì các bà ganh nhau tốn kém và mấy ông sư ông vả lại cũng chưa quên
hẳn sự đời.
——————
(1) Của cải, tài sản trong gia đình.
18- Đời sống tôn giáo hời hợt
Nguyễn Văn Huyên
(“Hương Sơn hành trình,” Đông Dương Tạp chí, năm 1914)
Mặc dù sự có mặt của vô số ma quỷ và thần linh, người Việt vẫn có một đời sống tôn giáo
không lấy gì làm sâu sắc cho lắm. Người ta chỉ có những niềm tin mơ hồ về linh hồn, về sự
sống ở thế giới bên kia, về các thần. Một số lớn thần được định tính không rõ ràng và
thường thường là phi nhân cách. Không có sự giáo dục tôn giáo cụ thể, cũng như không có
sự tuyên truyền tôn giáo có tổ chức.
Mọi người chỉ cầu tới tôn giáo do nhu cầu vật chất. Ở một số trường hợp, người ta tìm kiếm
một kết quả trước mắt như khỏi bệnh, có con, có tiền tài. Người ta cũng cầu thần để cho đời
sống một người đã khuất ở thế giới bên kia được dễ dàng, để thi đỗ, để nhanh chóng trong
một việc, để đi xa một chuyển được bình yên... Thường thường trong ý thức dân gian, tôn
giáo được quy lại chỉ còn là một lô thực hành thờ cúng đã trở thành bắt buộc. Lễ nghi là tất
cả, nó đôi khi bao gồm những nghi thức rắc rối hoặc núp dưới một hình thức long trọng có
tính cách bề ngoài.
19. Từ ảo tưởng tới thoái hoá
Phan Khôi
(Báo Thần chung, năm 1929)
Mấy trăm năm nay, thuyết minh đức tân dân (1) làm hại cho sĩ phu nhiều lắm, nhất là trong
thời đại khoa cử thịnh hành. Buổi còn đang đi học thì người nào cũng nhằm vào hai chữ tân
dân đó mà ôm những hy vọng hăo huyền, cứ tưởng rằng mình ngày sau sẽ làm ông nọ bà
kia, sẽ kinh bang tế thế, rồi mình sẽ thượng trí quan, hạ trạch dân, làm nên công nghiệp (2)
ghi vào thanh sử (3) đến đời đời, không ngờ thi không đậu hay đậu mà không làm ra trò chi,
thì trở nên thất vọng, thiếu điều ngă ngửa người ra, tay chân xuôi lơ và bủn rủn.
Còn người khác đắc thời, thi đậu ra làm quan thì lại ỉ rằng bấy lâu mình đă có cái công phu
minh đức, nghĩa là mình đă học giỏi rồi, thì bây giờ cứ việc thôi sờ học ư sở hành, chớ có lo
chi.
Bởi vậy nên có những ông thượng thư bộ hộ mà làm chẳng chạy bốn phép toán, thượng
thư bộ binh mà cả đời chẳng biết đến cái lưng con ngựa ra sao cái cò khẩu súng là gì. Mà
rồi ông quan nào cũng như thượng đế cả, nghĩa là toàn trí, toàn năng (!)
——————
(1) Trích từ câu đầu tiên của sách Đại học, có nghĩa làm sáng đức và khiến dân luôn luôn
đổi mới.
(2) Cũng tức là sự nghiệp.
(3) Thanh sét thời cổ ở Trung Quốc dùng thẻ tre để chép sử, nên lịch sử thường được gọi
là thanh sử.
20. Chăm học nhưng chưa thoát khỏi tư cách học trò
Phạm Quỳnh
(“Bàn về quốc học,” Nam phong, 1931)
Nước ta vẫn có tiếng là ham học, nhưng cả nước ví như một cái trường học lớn, cả năm
thầy trò chỉ ôn lại mấy quyển sách giáo khoa cũ, hết năm này đến năm khác, già đời vẫn
không khỏi cái tư cách làm học trò!
Ấy cái tình trạng nước ta, sự học từ xưa đến nay và hiện ngay bây giờ cũng vẫn thế… Xưa
khi học sách Tàu thì làm học trò Tàu, ngày nay học sách Tây chỉ làm học trò Tây mà thôi…
chưa mấy ai là rõ rệt có cái tư cách – đừng nói đến tư cách nữa, hăy nói có cái hy vọng mà
thôi – muốn độc lập trong cơi tư tưởng cả.
Như vậy thì ra giống ta chung kiếp (1) chỉ làm nô lệ về đường tinh thần hay sao? Hay là tại
thần trí của ta nó bạc nhược quá không đủ cho ta cái óc tự lập.
——————
(1) Suốt đời.
21. Không có can đảm là mình
Nguyễn Duy Thanh
(“Muốn cho tiếng An Nam giàu,” báo Phụ nữ tân văn, 1929)
Ông Dorgelès trong quyển “Con đường cái quan” có nói đến thói hay bắt chước của người
mình. Đại khái ông nói rằng: “Ngày xưa người Tàu sang cai trị An Nam, người An Nam đều
nhất nhất theo Tàu cả. Nay người Pháp sang bảo hộ mới được gần một trăm năm, mà nhà
cửa đă theo Tây thời rất dễ dàng, nói đến tiếng An Nam thời khô khan, hình như phải dịch
tiếng mình ra tiếng nước ngoài… Khoa học có nói rằng giống thằn lằn hễ bám vào cây nào
thì lâu dần sẽ giống da cây ấy. Ở bên An Nam này thời không thế, thằn lằn không đổi màu
da mà chính cây đổi màu da để lấy màu da thằn lằn.”
Câu nói đau đớn thay mà xét người ta nói cũng phải. Người viết văn phải có can đảm mà
dịch những chữ nước ngoài ra. Mở đầu có hơi ngang tai, sau dần rồi cũng nghe được. Cụ
Nguyễn Du không can đảm sao dịch nổi chữ tang thương ra chữ bể dâu, chữ thiết diện ra
chữ mặt sắt (1)… Mà cũng lạ thay cho người mình không suy xét kỹ: Người Tàu nói chữ vân
cẩu tang thương có khác gì chữ mây chó chữ bể dâu không. Ấy thế mà giá mình nói “Bức
tranh mây chó vẽ người bể dâu” (2) tất phần nhiều người cho là mách qué! Người Tàu
trước kia làm gì có những tiếng cộng hòa, cách mạng, cá nhân, vật lý học, kỷ hà học (3)…
Vì sốt sắng làm cho tiếng nước nhà giàu thêm lên, nên họ không ngại khó, rồi mới đặt ra
được cái tiếng ấy. Người mình thì không thế. Muốn dịch một chữ Pháp hay chữ Anh ra tiếng
nước nhà mà không dịch nổi, thì cứ việc mở ngay tự vị (4) Tàu ra, trong ấy đã sẵn sàng cả
rồi. Dù người Tàu có dịch sai chăng nữa cũng mặc cứ cắm đầu cắm cổ mà chép, ai biết đến
đó mà lo.
——————
(1) Hai câu nguyên văn trong Truyện Kiều: “Trải qua một cuộc bể dâu” và “Lạ cho mặt sắt
cũng ngây vì tình.”
(2) Một câu trong “Cung oán ngâm khúc.” “Bức tranh vân cẩu vẽ người tang thương.”
(3) Tức hình học.
(4) Tức từ điển.
22. Thạo sử người hơn sử mình
Hoàng Cao Khải
(“Việt sử yếu,” 1914)
Sĩ tử khắp nước ta làu thông kinh sách mà không biết đất đai của nước ta và nòi giống dân
ta như thế nào. Họ chỉ biết Hán Cao Tổ, Đường Thái Tông mà không biết Đinh Tiên Hoàng,
Lê Thái Tổ ra làm sao. Họ chỉ biết Khổng Minh, Địch Nhân Kiệt mà không biết các bề tôi Tô
Hiến Thành, Trần Quốc Tuấn thờ vua giúp nước như thế nào. Họ chỉ biết núi Thái Sơn cao
chót vót, sông Hoàng Hà sâu thăm thẳm, nhưng không hề hay biết núi Tản Viên từ đâu tới,
sông Cửu Long ở Nam Kỳ – phát nguyên từ nơi nào. Ưa chuộng phong tục nước ngoài cho
nên bao nhiêu nghi lễ về quan hôn tang tế (1), chúng ta đều bắt chước người Trung Hoa
cả. Lại còn lấy kỹ nghệ nước ngoài làm ưa thích. Đă không chịu học hỏi cách biến chế, óc
sáng kiến của họ, mà tại đi tiêu thụ hàng hóa giúp cho họ. Đa số những vật liệu như đồ sứ,
hàng tơ, lụa, hàng thêu, hàng đoạn (2)… chúng ta đều đi mua sắm từ bên Trung Quốc về
dùng. Rồi dần đà lâu ngày, linh hồn của dân tự nhiên bị đổi dời, trí năo của dân ta tự nhiên
bị bưng bít mà ta không hề biết, chỉ vì cái cớ chúng ta cứ chuyên trọng Bắc sử (3) mà thôi.
——————
(1) Các việc thuộc về đình đám, ma chay, cưới xin…
(2) Hàng dệt bằng tơ, mặt bóng mịn.
(3) Tức lịch sử Trung Hoa..
23. Đầu óc vọng ngoại và hay kỳ thị (**)
Trần Văn Giang
Luôn luôn có đầu óc vọng ngoại, nghĩa là tôn sùng hàng (ngoại) hóa và người ngoại quốc –
những gì đến từ bên ngoài Việt Nam đều tốt đẹp hơn ở nội địa. Có lẽ vì dân trí mình còn
thấp kém lại bị ngoại quốc đô hộ quá lâu - trên ngàn năm. Đã đành là đối với người ngoại
quốc thì e sợ, nhát nhúa, nhưng đối với nhau thì lại thích hống hách và kỳ thị.
Người mình có đủ mọi kiểu kỳ thị: Tôn giáo (Phật giáo, Công giáo, Hoà hảo, Cao đài, Tin
lành v.v..); Địa phương (nơi, miền); Sinh trưởng (Nam, Trung, Bắc); Sắc dân (Kinh, Thượng,
Cao miên, Chàm, Trung hoa…); Bằng cấp và Xuất xứ được đào tạo giáo dục (truờng Việt,
trường Mỹ, truờng Tây, trường Tầu, trường Liên xô…)
Sang sống tị nạn ở hải ngoại, sau khi ăn nên làm ra, cũng thấy bắt đầu dở mòi kỳ thị người
thiểu số, da mầu bản xứ (da đen và da nâu / Mễ) nhiều khi tính kỳ thị của người mình còn
hơn cả người Da trắng chính gốc bản địa nữa (!)
24. Vô kỷ luật (**)
Trần Văn Giang
Bất cứ ở đâu cũng có thể lấy thịt đè người, to tiếng, chen lấn vô trật tự, khinh thường người
khác có vẻ nhỏ bé, nhã nhặn hơn mặc dù chưa (hoặc chẳng cần) hiểu rõ họ là ai? Ở những
nơi như chợ búa, hàng quán… Những nơi cần phải được xếp hàng theo thứ tự, tuần tự thì
phe ta cứ tự tiện bất chấp luật lệ, lẽ phải tự nhiên (“common senses”), cứ tranh dành thế
nào để rồi chen lấn, xô đẩy xếp thành một hàng ngang thôi mới vừa ý – hàng ngang có
nghĩa rằng mọi người đều là số 1, không ai chịu thua kém ai? Thiệt tình, văn minh của
người mình thiếu hẳn cái “văn hóa xếp hàng!” cơ bản này – Người nào hung bạo nhất, to
tiếng nhất thì người đó cũng tự cho mình có cái quyền phải được phục vụ trước (?) Hay thật!
Sau biến cố tháng 4 năm 1975, người Việt Nam di tản đi tị nạn cộng sản khắp thế giới, sau
khi đã được định cư ở những nước văn minh Âu Mỹ thì Cộng Đồng Việt Nam bị những sắc
dân bản xứ và thiểu số khác coi thường chỉ vì cái "thói quen cố hữu 4000 năm chen lấn" này.
Vấn đề “vô kỷ luật,” thiếu lịch sự tối thiểu còn được thấy ngay trong các dịp đi dự tiệc cưới,
họp mặt, lễ lạc, giờ hẹn phòng mạch bác sĩ… Cứ tự nhiên đi trễ cả tiếng đồng hồ sau giờ ấn
định làm các quan khách, các thân hữu, người phục vụ phải chờ đợi trông ngóng mệt mỏi.
Sự trễ nãi lạc hậu này đã trở thành một hủ tục gắn liền với người Việt Nam. Đến nỗi tại hải
ngoại có câu vè châm biếm:
"Không ăn đậu (beans) không phải Mễ,
Không đi trễ không phải Việt Nam !!!"
-------------
Chú thích:
(**) TVG viết thêm 2 tiểu mục số 23 và 24.
Trần Văn Giang