Ký ức tuổi thơ là một thung lũng xanh, mà nơi đó thời gian đã phủ lên
từng phiến đá, gốc cây một lớp sương mù lãng đãng. Dù thực tế có gai góc
đến đâu, nhưng khi nghĩ về kỷ niệm ấu thời, những người lớn - hiểu như
là khách trần gian đang lần bước đến tuổi già - khi nào cũng thấy “ngày
xưa đó” một cách rất êm đềm và dịu ngọt.
Phải
chăng vì thế mà suốt gần 40 năm, bốn mươi mà nhân cho mỗi năm ít nhất
nhỏ to là 5 trận lụt, thành ra có đến hơn 200 cơn lụt Huế đã qua trong
đời tôi một cách... tĩnh mà mê, xuôi tay theo “trời xanh quen thói...”
(!)
Từ những ngày bé xíu chân quê ở làng Liễu Hạ, hàng năm, tôi
cũng như lũ bạn xóm Côi, xóm Cụt, xóm Bàu chuẩn bị tinh thần “nghênh”
lụt một cách rất...thơ! Sáp nhỏ, hình như đứa nào cũng thuộc lòng hai
câu vè “tiên tri” cá lên trời ăn sao. Chú Đoài, gã hát lời tiên tri,
miệng thường ngậm điếu thuốc lá ngọn to gần bằng ngón chân cái, hút bập
bập vài phát, rồi dắt điếu thuốc thời Âu Cơ lên mang tai. Khi nói vè,
mắt chú nhắm nghiền như đang vân du về một trận đại hồng thủy xẩy ra đâu
đó - không rõ từ trong hoài niệm quá khứ hay mường tượng về một tương
lai:
(Úi cha) Sông Ngân Hà (mà) vịt lội có ngời,
(Chơ) Cá to, cá nhỏ lên trời (mà) đớp sao (á...a)
Có
nhiều đêm trăng mùa tháng tám, dưới ánh trăng đồng quê chảy tràn lan
trên rơm rạ mới, tôi nằm giữa chiếc nong to phơi lúa ngoài sân mà vẽ ra
một cảnh lụt tuyệt vời. Tôi mường tượng thấy đàn vịt đủ màu của chú
Xang, chú Hói bơi lội “có ngời” trên dòng sông trời đầy nước bạc lung
linh. Và bầy cá mở miệng tròn xoe đớp những vì sao mọng nước óng vàng.
Tôi không cần ưu tư tự hỏi mình sẽ ngồi ở đâu khi nước đã lút tới trời!
Tuổi thơ là thơ không tuổi, nên mơ mộng và thực tế thường quyện vào nhau
man man như mây trời và áo trắng.
Bão năm Thìn (1924), lụt Năm
Ba (1953), Thất thủ Kinh Đô năm Ất Dậu (1885)... là những biến cố khủng
khiếp nhất trong khái niệm về tai trời ách nước của người dân xứ Huế.
Tôi
“suýt thấy cá ăn sao” năm lên bảy tuổi với trận lụt Năm Ba. Trận lụt
được xem là lớn nhất trong lịch sử nước lũ mưa nguồn của Huế vào thời
đó. Mùa Đông năm Quý Tỵ. Không ai nhớ mưa đã mấy ngày. Cơn lụt nhỏ bình
thường đến và sắp đi ngoài ngõ cũng chẳng làm ai ngạc nhiên hay sợ hãi.
Một đêm, tôi nghe những tiếng vọng ì ầm như có tiếng gì chuyển động nặng
nề từ dưới lòng đất sâu dội lên. Mẹ tôi gọi đó là “sấm đất”; rồi mẹ
giải thích rằng, sấm đất xảy ra là trời đang... “đổi chủ”. Ông chủ trời
mới thường hay ra oai bằng cách sai thần sấm, thần sét gõ búa đùng đùng;
bắt quyết, đọc bùa làm mưa to gió lớn.
Tôi ngủ quên trong tiếng mưa lũ xé lá bên ngoài và chuyện huyền
thoại đất trời do mẹ kể - như miếng ớt cay giúp quên mùi mắm mặn - hay
sự an ủi để đủ sức chịu đựng của mẹ, của dân làng khi mỗi năm trời hành
cơn lụt (?). Nửa đêm thì có tiếng o Cúc la lên là nước lụt đã vô nhà.
Mưa từng cơn ào ào xối xả. Thức dậy, tôi dụi mắt ngồi co ro từ trên
giường nhìn xuống ánh đèn dầu chiếu nước đã lênh láng khắp nhà. Mưa càng
lớn, nước càng lên nhanh. Nước leo dần lên giường, lên ghế, lên bàn,
lên cái cối xay, và sáng ra thì nước đã mấp mé khung cửa sổ. Cái giường
tre mỏng manh mỗi lúc được kê lên cao dần. “Lẽ sống” của cả bốn người
trong gia đình tôi chất gọn trên chiếc giường. Thức ăn, áo quần, mền
chiếu, bếp núc đều dồn lên trên bốn cái chân tre ốm yếu lắc lư theo đà
chao động của nước. Đến gần trưa thì bốn vó tre già từ từ gục xuống. Thế
là xong, lẽ sống chìm sâu trong nước. Biên giới cuối cùng giữa sống và
chết, giữa ước mơ và thực tại, giữa bây giờ và vĩnh cửu là cái thang tre
run rẩy dưới sức bám của bốn người. Chỉ còn một nơi “cao cả” nhất trong
nhà là cái “tra” đựng lúa. “Tra” là cái thùng gỗ an toàn có khung bắt
dính với rầm thượng và mái nhà, nằm phía trước bàn thờ chính ngay gian
giữa. Đó là cái kho an toàn đựng lúa và nơi cất giữ đồ quý báu của phần
đông dân quê Việt Nam.
Trời lạnh, quần áo ướt đầm mà tôi vẫn
thấy mồ hôi nhỏ dòng trên trán mẹ với da mặt đổi từ xanh xao sang màu
xám khi mẹ tôi quyết định mở tra, đổ lúa xuống nước chừa chỗ cho chúng
tôi chui vào. Dòng lúa như dòng máu vàng đẫm mồ hôi và nước mắt của
tháng ngày làm ruộng chảy xuống nước tỏa bụi mù, tung nước bọt. Chưa bao
giờ tôi thấy mẹ tôi lặng lẽ như phút đó. Tôi ngạc nhiên thấy mẹ tôi lấy
hết mo cơm bới để dành trong góc tra từ hôm trước và ép mọi người, nhất
là tôi, “gắng ăn no cho có sức”. Đã hai ngày, mỗi bữa chỉ được ăn một
vắt cơm độn với sắn lát, nay bỗng dưng được ăn cơm trắng ấm bụng, tôi
nuốt không kịp nhai với nỗi khoái cảm tuyệt vời mà không chắc đời sẽ có
được hai lần. Trong xó tra với ánh sáng mờ mờ do nước bạc hắt lên từ khe
hở trên cùng còn sót lại của khung cửa sổ, tôi thấy mẹ tôi mở cái tráp
mây cũ kỹ lấy đôi bông tai bằng thòa thời cưới hỏi xa xưa của mẹ đeo
lên. Xong mẹ bò xuống thang, lần mò tới mở sợi dây dừa cột giàn xay lúa
một nửa chìm xuống nước. Mẹ leo lên tra trở lại với sợi dây dừa và cái
mác trong tay. Chị tôi phải ôm mẹ bồng lên tra vì mẹ bỗng run lẩy bẩy.
Mẹ tôi túm tay chúng tôi lại, giọng lạc đi: “Cột tay lại! Cột tay lại!
Chặt đòn tay trổ nóc. Chết chung...” Tiếng mẹ tôi yếu dần trong cơn xúc
động. Bảy tuổi nhưng tôi đủ hiểu mẹ tôi muốn gì. O Cúc là người cuối
cùng đưa bàn tay sũng nước, trắng dẻ và nứt nẻ từng mảng da vì dầm nước
quá lâu, vào vòng dây thòng lọng. Tôi ấp bàn tay lạnh lẽo, tím ngắt của
mẹ vào lồng ngực bé xíu, nhưng còn âm ấm dưới hai tầng áo ướt của tôi,
cùng lúc với tiếng reo vui của chị Thuyền như vừa khám phá ra điều gì
vừa đột biến: “Nước cầm chừng rồi mạ ơi!”
Bốn mươi sáu năm sau,
từ phút “nước cầm chừng” nên tôi còn sống sót đến hôm nay, điện thư đầu
tiên của Dũng lọt ra khỏi Huế, đến Mỹ vào lúc nửa đêm sau cơn lũ lụt cao
hơn trận lụt 1953 quá 1 mét: “Đoàn ơi! Nước đang rút dần nhưng vùng
thượng nguồn mây vẫn còn vần vũ đe dọa. Nghe tin một làng nào đó ở Bãng
Lãng bị nước cuốn sạch. Trưa nay trước bình phong Quốc Học có hơn hai
chục xác người bị nước cuốn tấp vào bờ sông Hương vừa được vớt lên. Có
cả gia đình mọi người tay còn buộc dính vào nhau”. Tôi run lên, mắt mờ
đi. Lặng người vì xúc động, tôi sờ lên cườm tay. Cảm giác sợi dây dừa
ướt quàng quanh cổ tay, phập phồng theo nhịp đập của những trái tim
thương yêu, ràng buộc, đợi chờ đã nửa thế kỷ qua rồi sao vẫn còn nguyên
vẹn. Mưa bên trời quê hương mà cơn lũ trong lòng tôi cũng dâng lên từ
phương nầy, cuống quýt. Tội lắm. Huế ơi!
Ngày 2-11-1999. Tin khẩn
cấp số 1: “Lũ và lụt ào tới Huế từ lúc 4 giờ sáng ngày hôm nay. Lúc 9
giờ sáng, nước vào cầu Kho Rèn 40 cm. Trưa, ngập vào sân Mô-Ranh. Chiều,
tất cả các phương tiện hữu tuyến và vô tuyến đều bị ngập. Điện thoại
cầm tay cũng không liên lạc được. Đài truyền thanh và truyền hình Huế
ngưng phát sóng. Lúc 11 giờ đêm, mực nước sông Hương cao 5 mét 20. Cả
thành phố Huế chìm trong biển nước. Báo chí bình luận: Thừa Thiên Huế
đang trong cơn đại hồng thủy!”
Tôi sững sờ nhận tin “e-mail” từ
anh Hồ Đắc Duy ở Sài Gòn và tức tốc chuyển tin cho bạn bè, anh em, người
thân Việt Nam, nhất là các “Huế kiều”, rải rác khắp các nước trên thế
giới. Tôi thức trắng đêm chờ tin khẩn cấp số 2, số 3, số... từ quê nhà
truyền đi từng 2 giờ một.
Sáng hôm sau, và hôm sau nữa, Huế vẫn
như một thành phố từ cõi âm: Lặng lẽ và im lìm. Cho đến khi nước lũ, mưa
nguồn kéo nhau về biển, sau khi đã biến Huế thành một bãi tang thương
với 321 người chết trong tổng số 527 người chết và mất tích trên toàn
miền Trung, tôi vẫn còn hướng về quê hương. Cầu nguyện.
Đúng hai
tuần sau ngày khởi đầu cơn lũ lụt miền Trung, từ giữa lòng xứ Huế,
chưởng môn võ đường Bạch Mã lại viết cho tôi: “Trời Huế nắng ráo, đẹp -
như (trời) chưa bao giờ tàn ác với Huế như vậy... Trận lũ lụt đã cuốn
phăng đi bao mạng sống của con người, cuốn phăng đi bao tài sản, bao
công trình; nhưng nó cũng đã cuốn phăng đi những hận thù ngăn cách; để
lộ ra một tấm lòng chung, “máu chảy ruột mềm”. Nhìn thực tế trước mắt,
và nhìn thực tế “một con ngựa đau cả tàu không ăn cỏ” đang diễn ra khắp
nơi, hướng về sự đau khổ của miền Trung, nhiều lần mình đã khóc Đoàn ạ.
Khóc, một phần vì nỗi thương tâm, một phần vì trong hoạn nạn mà con
người sống với nhau đẹp quá. Tất cả đều chung một lòng, yêu thương, chia
sẻ, một cách tự nhiên, hồn hậu. Nếu người Việt Nam mình có một cái chi
đó đẹp đẽ, thu hút, chắc là vì mình đã được tôi rèn trong hoạn nạn, đau
thương chăng?”
Vốn đã quen với nước lũ mưa nguồn từ trong máu
thịt, người Việt khắp nơi trên thế giới đã thức cùng với anh em, bạn bè,
và đồng bào ruột thịt qua những ngày đêm lũ lụt ở quê nhà. Hầu như mọi
người Việt xa nhà đã nồng nàn chia sẻ trước sự mất mát của bà con không
may từ những ngày đầu lũ lụt với mối thâm tình “lá lành đùm lá rách”.
Tôi bỗng thấy con người tứ xứ gần nhau hơn và thế giới xa lạ nầy thu nhỏ
lại khi ghi danh cho những sinh viên trường Cosumnes River College -
những người trẻ tứ xứ mà Việt Nam chỉ mới là một tên gọi mơ hồ trong ý
niệm - tình nguyện vào đoàn cứu trợ. Tseng, Kim, Kumagai, Karen, Nicole,
Bradley, Thanat, Hồng, Tuyết, Dũng... những sinh viên “liên hiệp quốc”
của tôi, đang nối kết với nhau bằng một chất keo rất dễ bị lãng quên -
tuy lúc nào cũng có: Tình Người.
Nhiều nhà lý thuyết thời danh
tiên đoán rằng, với sự phát triển tột bực của khoa học và kỹ thuật, hận
thù sẽ vơi đi và tình thương sẽ trở lại, vì con người cách nhau vạn dặm
có điều kiện tương giao và chia sẻ nên ít hiểu lầm nhau hơn. Nhờ vậy,
rồi đây thế giới loài người sẽ xích lại gần nhau thành một “Làng địa
cầu”. Sau cơn lũ lụt miền Trung, tôi mường tượng thấy một “xóm Việt Nam”
đượm tình người thấp thoáng đâu đó, trong ngôi làng kia, trên đường
sang thế kỷ.
Trần Kim Đoàn
(249/11-09)
Nguồn: http://tapchisonghuong.com.vn/tap-chi/c187/n3896/Troi-hanh-con-lut-moi-nam.html