Thứ Hai, 19 tháng 1, 2015

Bạn tôi, Trần Trung Đạo



Nhân hai nhà thơ Nguyễn Thanh Huy và Nguyễn Tiến Quỳnh Giao cho tôi biết Trần Trung Đạo sẽ sang Nam California để ra mắt tác phẩm mới, "Chính Luận Trần Trung Đạo". Tôi ngẫm nghĩ về tựa đề này, 3 chữ sau vốn quen thuộc với nhiều người rồi, thế thì hai chữ đầu mang ý nghĩa gì nhỉ; Với thiển ý thì "Chính Luận", có thể Đạo suy tư về những nan đề về những chiến thuật cấp bách hay những chiến lược quan yếu dài hạn mà những người quốc gia chúng ta có thể tìm được những đề nghị hay những phân tích về chủ đề do Đạo trình bày. Chính luận có vai trò đặc biệt trong dòng lịch sử đấu tranh chính trị, văn hóa và xã hội và vì ngày hôm nay chuýng ta không đấu tranh chống người Cộng sản bằg võ khí quy ước nữa, nhưng bằng phương tiện hình ảnh, chữ nghĩa, mang khía cạnh chiến tranh tâm lý chiến. Thế nên "Chính Luận Trần Trung Đạo" trong cái nhìn của người viết bài là một trong những phong cách sáng tác tiêu biểu nhất biểu tượng những nan đề hay chủ điểm mà tác giả Trần Trung Đạo đã khai triển gởi đến người đọc và cũng là những chủ điểm ý thức hệ của người cầm bút. Ba nan đề chính được khai triển và phân tích cặn kẽ gồm Hiểm họa Trung Cộng, Thực trạng Việt Nam và Chính sách tẩy não của Cộng Sản Việt Nam. 

Chính luận Trần Trung Đạo là một tuyển tập gồm các bài tham luận chính trị dày 600 trang gồm 42 bài chọn lọc của nhà văn Trần Trung Đạo trong nhiều năm qua. Nay được đúc kết theo tuần tự đề mục ăn khớp với nhau, để khi độc giả đọc sẽ theo luồng tư tưởng mạch lạc. Tác phẩm trình bày chủ đề Hiểm họa Trung Cộng qua 14 bài,tác giả trình bày các kinh nghiệm lịch sử của thế giới qua chính sách của các chính phủ Thổ Nhĩ Kỳ, Tiệp Khắc, Nam Phi, kinh nghiệm Thổ Nhĩ Kỳ chủ trương cứng rắn chống Liên Xô, đứng hẳn về phía Tây phương. Kinh nghiệm "Phần Lan hóa" bởi Liên Xô vì chịu ảnh hưởng chính trị Nga q ua1 nặng. So sánh chính sách của Hitler trong thế chiến thứ hai và chính sách của Trung Cộng hiện nay, phân tích chủ nghĩa thực dân Trung Cộng tại các quốc gia Phi Châu như Congo, Angola, Zimbabwe, Sudan cũng như chủ trương bành trướng của Trung Cộng tại vùng Đông Nam Á. Trung Cộng muốn Việt Nam những gì Liên Xô muốn Phần Lan khi xưa và tham vọng xâm lăng Hán hóa nhiều hơn. Sự kiện sai lầm của đảng Cộng Sản Việt Nam qua Công hàm bán nước của Phạm Văn Đồng năm 1958 và sự kiện đau lòng chúng ta khi suy tư về hậu quả mất nước do Hội Nghị Thành Đô đầu thập niên 1990. 
Người viết bài còn nhớ những câu nói ngô nghê của viên Tổng Bí Thư Lê Duẩn: "Ta đánh Mỹ là đánh cho Lên Xô, Trung Quốc". Hay của viên Chủ Tịch Nước Nguyễn Minh Triết: "Có người ví von Việt Nam, Cuba như là trời đất sinh ra, một anh ở phía đông, một anh ở phía tây. Chúng ta thay nhau canh giữ hoà bình cho thế giới. Cuba thức thì Việt Nam ngủ, Việt Nam gác thì Cuba nghỉ”. Những ý tưởng nô lệ người. 
Nan đề kế là Hiện trạng Việt Nam gồm 16 bài, trình bày các phong trào thanh niên sinh viên học sinh trước 1975, các phong trào xã hội tại Việt Nam, xã hội dân sự, cuộc đấu tranh dân chủ của thế hệ trẻ, các khó khăn và triển vọng của cuộc vận động dân chủ tại Việt Nam hiện nay. 
Phần này tác giả gửi tâm bút như nỗi lòng xây dựng đặt niềm tin vào tuổi trẻ Việt Nam đem lại dân chủ để đưa dân tộc Việt Nam đến tương lai tươi sáng, tác giả trân trọng khi ghi ngay nơi trang đầu của sách Chính Luận là "Tặng tuổi trẻ Việt Nam 
Đề cập về yếu tố dân tộc độc lập và con đường cứu nước phải là tự do dân chủ theo tác giả Trần Trung Ðạo, dân chủ là giải pháp duy nhất cho Việt Nam. Vì chỉ có dân chủ thì mới đẩy lùi hiểm họa bắc thuộc, cho phép người dân nhập cuộc giải quyết các vấn nạn xã hội, tạo môi trường cho đất nước hoà nhập vào thế giới tự do và phát triển. Tác giả nhắc nhở rằng "con đường đến dân chủ rộng thênh thang, đủ rộng cho mọi người cùng tham gia". Thật vậy, mỗi cá nhân chúng ta có thể chọn lựa phương thức riêng tư của mình trên con đường mà cứu cánh đảng Cộng Sảnn Việt Nam phải bị triệt tiêu. Hãy mở các mũi về nhọn cho dân chủ nhân quyền. Nhân quyền là giá trị toàn cầu mà các quốc gia văn minh tiến bộ tôn trọng và công chúng ở các nơi đó quan tâm và chia xẻ. Dân chủ chỉ có khi người dân biết kết hợp thành sức mạnh vượt lên trên sức mạnh của chế độ. 
Và Bài học tẩy não sau hết là chủ đề thứ ba gồm 12 bài, phân tích chính sách tẩy não như cột xương sống đang chống đở chế độ Cộng Sản hiện nay, các phương pháp giải tẩy não, tiêm nhiễm, đầu độc qua các chính sách tẩy não tại Liên Xô trước đây và của Bắc Hàn, Trung Cộng, Việt Nam hiện nay. Trang 519 của sách Chính Luận ghi nhận sự kiện Tẩy não là chủ đề chính thứ ba trong sách Chính Luận. Tác giải bàn luận về vai trò của chính sách tẩy não trong chế độ Cộng Sản, tác giả viết rằng: "Khái niệm tẩy não được biết đến từ lâu qua các phương cách gian tà, chiến tranh, tình báo, tuy nhiên chỉ dưới các chế độ Cộng Sản kỹ thuật này mới được nâng lên thành quốc sách và được thực hiện một cách triệt để, được hệ thống hóa, bao trùm mọi lãnh vực xã hội và trong mọi tầng lớp nhân dân." 
Phần sau đây là những điểm mà người viết xin trình bày những tài liệu do tác giả Trần Trung Đạo viết và phổ biến. 
Tôi đọc bài viết về sự tẩy não mà hai chế độ Cộng Sản áp dụng, nên trong bài Đảng 50 Xu tại Trung Cộng, Trần Trung Đạo viết: 
"Như người viết đã có dịp phân tích về Chính sách tẩy não của CS, ngày nào các chính sách tuyên truyền CS không còn hiệu quả, đó cũng là ngày trái tim của chế độ ngừng đập, đúng như Anne-Marie Brady viết trong trang đầu của tác phẩm Marketing Dictatorship: Propaganda and Thought Work in Contemporary China: “Tuyên truyền thật là máu sống của đảng và nhà nước CS”. 
Tuyên truyền dưới chế CS là cả một hệ thống tinh vi, phức tạp, đa diện, bài viết này chỉ bàn đến bộ phận có chức năng kiểm soát và lèo lái dư luận trên các trang mạng internet, đó là bộ phận Dư Luận Viên. CSVN rập khuôn các chính sách tuyên truyền của Trung Cộng, do đó từ các nghiên cứu về Trung Cộng, sẽ dễ dàng suy ra các chính sách vận dụng dư luận của CSVN. 
Tại Trung Cộng, dư luận viên không chỉ chịu sự kiểm soát của Ban Tuyên Truyền Trung Ương (Việt Nam gọi là Ban Tuyên Giáo Trung ương) về các chính sách chung của đảng CS nhưng mỗi bộ trong chính phủ Trung Cộng cũng có các dư luận viên riêng để phục vụ cho chính sách riêng của bộ và có trách nhiệm trả lương cho dư luận viên này. Lực lượng dư luận viên giấu mặt này được gọi chung là Đảng 50 Xu (五毛党 wǔmáo dǎng) vì khi bắt đầu năm 2004 họ được trả 50 Xu cho mỗi lời bình. Mười năm sau, vật giá leo thang, mức lương cũng gia tăng theo, nhưng thành phần dư luận viên vẫn còn được gọi là những đảng viên của Đảng 50 Xu. Các lãnh đạo bộ máy tuyên truyền Trung Cộng cho rằng danh từ Đảng 50 Xu là sản phẩm tuyên truyền của Mỹ, Nhật dùng để chế giễu các cơ quan thông tin Trung Cộng." 
Trở lại hiện trạng Việt, Nam trong bài tiểu luận "Tuổi trẻ Việt Nam, học lịch sử để làm lịch sử", Đạo viết: 
"Ba mươi ba năm sau. Cũng những ngày cuối năm, ngồi xem hình ảnh các cuộc biểu tình ở Hà Nội, đọc bản tin được viết vội vàng trên đường phố Sài Gòn, đọc danh sách của những người ký tên, trong đó đa số là tuổi trẻ, để phản đối Trung Quốc vi phạm lãnh thổ Việt Nam trên Internet, tôi vui mừng và cảm động. Trung Quốc không phải vì các cuộc biểu tình của các em mà trao trả lại Hoàng Sa, Trường Sa cho Việt Nam, nhưng chắc chắn sẽ ảnh hưởng đến việc thực thi chính sách bá quyền của họ trên biển Đông. Để duy trì mức phát triển kinh tế hiện nay và chạy đua với các cường quốc kinh tế, Trung Quốc đang cần sự ổn định chính trị và kinh tế hơn bất cứ quốc gia nào khác trong vùng. Nhìn các em tôi lại nhớ đến chính mình. Đường phố Sài Gòn, nơi các em đang đứng hôm nay cũng là nơi tôi đã đứng đọc từng tên của những người đã ở lại trong lòng biển cả. Khẩu hiệu “Hoàng Sa là của Việt Nam” cũng là khẩu hiệu mà sinh viên chúng tôi đã hô ba mươi ba năm trước. Chúng ta có thể còn vài điểm khác nhau nhưng có chung một tổ quốc. Đó là điều hệ trọng. Lòng yêu nước đã thúc giục các em vượt qua bức tường sợ hãi, bất chấp sự ngăn cản của Đảng, của nhà nước, của ban lãnh đạo trường để cùng xuống đường nói tiếng của một người Việt Nam khi tổ quốc lâm nguy. Lịch sử bao giờ cũng mang tính thời đại, và trang sử Việt Nam hôm nay đang được viết bởi các em, những người Việt Nam đang đứng trước toà đại sứ Trung Quốc ở Hà Nội, trước lãnh sự quán Trung Quốc ở Sài Gòn. Và cũng qua những biến cố lịch sử này, các em sẽ có cơ hội thấy những sự thật đắng cay, những bài học bẽ bàng mà từ trước đến nay đã bị che lấp bởi hệ thống tuyên truyền lừa dối của Đảng. Các em đang học lịch sử và đang làm lịch sử... 

Lãnh đạo Đảng đã, đang và chắc sẽ làm tất cả những gì họ có thể làm để ngăn cản các cuộc biểu tình dù ôn hoà và bất bạo động của tuổi trẻ Việt Nam. Tuần trước họ ra chỉ thị cấm biểu tình, tuần này họ chụp mũ các em chống phá trật tự xã hội, tuần sau họ sẽ đem xe chữa lửa đến đàn áp và tuần sau nữa có thể trục xuất khỏi trường, bắt giam, kết án, tù đày. Tuy nhiên, lịch sử đã nhiều lần chứng minh, khi một chế độ chỉ còn trông cậy vào các phương tiện bạo lực trấn áp để tồn tại, chỉ còn biết sử dụng bộ máy công an kềm kệp để duy trì quyền cai trị, ngày tàn của chế độ đó chỉ là vấn đề thời gian. Hành động tuyệt vọng của Nicolae Ceausescu khi ra lệnh công an bắn vào cuộc biểu tình của nhân dân Rumania sáng ngày 17 tháng 12 năm 1989 chỉ để dẫn đến bản án tử hình dành cho vợ chồng ông ta một tuần sau đó. Lãnh tụ cộng sản Slobodan Milosevic một thời là tổng thống Serbia đầy quyền lực nắm trọn quyền sinh sát trong tay, cuối cùng cũng phải chết trong tù. Erich Honecker hung thần Đông Đức, Idi Amin đao thủ phủ của Uganda hay Mobuto bạo chúa của Congo đều đã gởi tấm thân tàn trên đất khách, để lại tiếng xấu muôn đời. Nếu giới lãnh đạo Đảng Cộng sản Việt Nam còn nghĩ đến tương lai của chính họ và còn biết lo cho tương lai của đất nước, họ phải chọn đứng về phía dân tộc. 
Con đường duy nhất để đạt đến một tương lai tự do, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng là con đường dân tộc và cũng chỉ có một Việt Nam tự do, dân chủ, nhân bản và thịnh vượng thì các thế hệ Việt Nam mai sau mới có cơ may giành lại được Hoàng Sa và Trường Sa." 
Trần Trung Đạo luôn trân trọng với tuổi trẻ Việt Nam, tương lai của dân tộc, Đạo viết bài "Đừng khóc cho Phương Uyên mà hãy sống cùng mơ ước của em.", hãy xem: 
"Cô bé đứng trên bục cao, đôi kính cận có cọng dày, tóc vén cao, áo trắng học trò, thân hình mảnh mai trông giống như một cô bé học sinh 15 tuổi đang đứng bảng đen trong lớp học chứ không phải đứng trước tòa án Cộng Sản. Em không sợ hãi, không van xin, trầm tĩnh và tinh khôi như một thiên thần: "Tôi là sinh viên yêu nước, nếu phiên tòa hôm nay kết tội tôi, thì những người trẻ khác sẽ sợ hãi và không còn dám bảo vệ chủ quyền của đất nước. Nếu một sinh viên, tuổi trẻ như tôi mà bị kết án tù vì yêu nước thì thật sự tôi không cam tâm". 
Cạnh em, Đinh Nguyên Kha, áo sơ mi trắng, tóc cắt cao của một thanh niên Việt Nam kiểu mẫu. Nguyên Kha cũng dõng dạc: "Tôi trước sau vẫn là một người yêu nước, yêu dân tộc tôi. Tôi không hề chống dân tộc tôi, tôi chỉ chống đảng cộng sản. Mà chống đảng thì không phải là tội". 
Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha không khuất phục. Chuyện “thú tội”, “xin khoan hồng” chỉ mới vài năm trước đây nhưng như đã thuộc vào quá khứ xa xôi, một thời kỳ còn chập chững đấu tranh, một phương pháp nay đã lỗi thời. Tranh đấu cho quyền lợi của dân tộc là một tự nguyện phát xuất từ trái tim và lòng yêu nước. Không ai bắt các em phải làm những việc các em không chọn lựa. Nhịp đập chân thành của con tim và tiếng gọi thiêng liêng của lòng yêu nước không cho phép một người gập đầu “xin khoan hồng”, “thú tội” dù chỉ là một hình thức trá hàng. Bảo vệ tổ quốc là một niềm vui, niềm hãnh diện. Nếu đã chọn hy sinh phải hy sinh cho trọn vẹn với lý tưởng của đời mình. 

Tình yêu nước trong lòng Nguyễn Phương Uyên và Đinh Nguyên Kha vô cùng trong sáng. Không giống Nguyễn Thị Minh Khai trước giờ bị xử tử hô lớn “Đảng Cộng sản Việt Nam muôn năm!” để thể hiện tinh thần bất khuất, kiên trung của bà ta đối với đảng, hay Lê Hồng Phong, trong lời trăn trối cuối cùng ngoài Côn Đảo chỉ nguyện trung thành với đảng, Phương Uyên và Nguyên Kha chỉ nghĩ đến những bà mẹ Việt Nam đang buôn tảo bán tần, nghĩ đến các em thơ đang lây lất trên đường phố, nghĩ đến máu các chú bác đã đổ xuống ở Hoàng Sa, nghĩ đến nắm xương của các chú bác đã thành cọc cắm lên hải đảo Trường Sa..." 
Trong bài tiểu luận khác: "Trách nhiệm của các thế hệ Việt Nam", xin trích đoạn: 
"Đảng Cộng sản thắng trong chiến tranh không phải vì họ có chính nghĩa, mà bởi vì họ đã kiên trì với mục đích nhuộm đỏ Việt Nam, được tổ chức một cách tinh vi từ trung ương Đảng cho đến tận tổ ba người và khai thác triệt để lòng yêu nước sâu đậm của người dân Việt Nam. Tôi cũng có một niềm tin rằng dân tộc Việt Nam với mật độ dân số trung bình không quá đông hay quá ít, với nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú, với lực lượng chuyên viên đông đảo trong các ngành khoa học đang có mặt trên khắp thế giới, với truyền thống yêu nước Bạch Đằng, Chi Lăng, Đống Đa vẫn chảy đầy trong huyết quản, nếu được chắp đôi cánh tự do, dân chủ, nhân bản, Việt Nam sẽ bay lên cao, sẽ thật sự trở thành một cường quốc kinh tế, cường quốc quân sự, sẽ đủ khả năng bảo vệ sự toàn vẹn vùng trời, vùng biển của tổ quốc thiêng liêng. Nếu không có tự do dân chủ, “khát vọng cất cánh” mà anh Tô Nhuận Vỹ nêu ra trong phần đầu tiểu luận chỉ là một giấc mơ tiên. 
Có người cho rằng Đảng Cộng sản đã có một thời đồng hành với dân tộc, cùng hướng đến một mục tiêu như dân tộc Việt Nam, do đó vai trò lãnh đạo của Đảng ngày nay là hệ quả tất yếu của lịch sử. Tôi không đồng ý. Đó là lý luận của kẻ cướp. Với tôi, rất nhiều đảng viên Đảng Cộng sản tham gia chống Pháp phát xuất từ lòng yêu nước và đã chết cho đất nước như tôi đã nhiều lần viết trên diễn đàn này, nhưng bản thân Đảng Cộng sản như một tổ chức chính trị chưa bao giờ đồng hành với dân tộc. Việc giành lại nền độc lập và chủ quyền đất nước từ tay thực dân là mục tiêu, là bến bờ của dân tộc Việt Nam, trong khi đó đối với Đảng Cộng sản, độc lập dân tộc chỉ là phương tiện, một chiếc cầu, một chiếc ghe họ cần có để đi qua trên đường tiến tới cách mạng vô sản. Mục tiêu đó đã được khẳng định ngay trong “Luận cương chính trị” Đại hội Đảng Cộng sản Đông Dương do Trần Phú chủ trì năm 1930 và được Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương phê chuẩn vào tháng 4 cùng năm:”Vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản trong cuộc cách mạng; hai giai đoạn cách mạng từ cách mạng tư sản dân quyền chống đế quốc và phong kiến nhằm thực hiện mục tiêu độc lập dân tộc và người cày có ruộng và sau đó chuyển sang làm cách mạng xã hội chủ nghĩa.” 

Trần Trung Đạo là ngòi bút đấu tranh cho những giá trị đích thực dân chủ tự do, nét bút uyên thâm sâu sắc, ôn hòa, không sắt máu" 
"Sau 1975, một số người từng xếp bút nghiên vào rừng “Chống Mỹ cứu nước” đã phẫn nộ, kết án giới lãnh đạo Đảng đi ngược lại quyền lợi dân tộc, phản bội lý tưởng, phản bội máu xương của đồng chí họ, đưa đất nước đi vào con đường nghèo đói, độc tài, đảng trị. Nghĩ cho đúng, đó là những lời kết án thiếu cơ sở lý luận lẫn thực tế. Thật là oan cho Đảng. Nếu họ chịu khó đọc các đề cương chính trị đại hội Đảng từ ngày thành lập 78 năm trước cho đến đại hội lần thứ X cách đây hai năm, sẽ thấy Đảng Cộng sản chưa bao giờ phản bội mục tiêu của mình. Mục tiêu cộng sản hóa toàn cõi Việt Nam và đặt dân tộc Việt Nam dưới quyền cai trị tuyệt đối của Đảng chưa bao giờ thay đổi. Vì một số điều kiện cách mạng và biến chuyển chính trị thế giới xảy ra ngoài tiên liệu, các chính sách của Đảng cũng phải theo đó mà áp dụng một cách thích nghi hơn, mềm dẻo hơn qua những chính sách gọi là “đổi mới”, “hội nhập” v.v…, nhưng mục đích của Đảng từ trước đến sau luôn nhất quán..." 

Image
 
Trần Việt Hải và Trần Trung Đạo

Trong tình bạn với Trần Trung Đạo, tôi mến anh như người bạn hòa nhã, dung dị, cởi mở, nhất là bản tính cùng tư tưởng yêu nước, tôi hàm ý nước Việt Nam Cộng Hòa, và chúng tôi chia chung cùng một tôn giáo. Ngày được tin Linh mục Trần Cao Tường đã từ trần vào Chúa Nhật 21.11.2010. Cha André Dũng Lạc Trần Cao Tường (Ngài là nhà văn quán xuyến website văn học Dũng Lạc) cả hai chúng tôi viết bài về Cha André Tường khi Ngài ra đi bất chợt. Trần Trung Đạo viết bài tiễn đưa: "Linh mục Trần Cao Tường, từ đồi Massada đến bờ sông Hát", bài viết cảm động. Xin trích đoạn: 
"Một ngày nọ của gần mười năm trước, tôi nhận một email của một vị linh mục nhận xét về thơ văn của tôi mà ngài đọc được trên internet. Email của linh mục nhắc đến một bài thơ và một tâm bút của tôi. Bài thơ viết về ngôi chùa Viên Giác, nơi tôi sống trong những ngày còn nhỏ ở Hội An và bài tâm bút viết về một nhà thờ Công Giáo ở quê tôi, nhà thờ Trà Kiệu. Phía dưới của email có một nội dung rất đậm đà tình cảm là một tên rất đẹp kèm theo số điện thoại: Trần Cao Tường. 
Tôi gọi lại ngay nhưng không có tiếng trả lời nên chỉ biết để lại lời cám ơn các nhận xét của Cha. Buổi chiều, Cha gọi lại. 
Chúng tôi nói chuyện với nhau lần đầu nhưng tự nhiên dường như đã quen thân nhau từ lâu lắm. Tôi “Thưa Cha” và xưng con theo đúng lễ nghi tôn giáo như tôi vẫn thường “Bạch Thầy” và xưng con với các thầy bên Phật Giáo. Cha Trần Cao Tường bảo “gọi nhau là anh em đi vì chúng ta cùng họ Trần cả”. Tôi không chịu và đề nghị Cha đừng để ý đến chuyện “Cha con” mà hãy xem đó như một phần của đạo đức Việt Nam. Cha không nói thêm gì nữa. Cả tôi và Cha đều thuộc mẫu người nói rất thoải mái. Chúng tôi nói chuyện suốt giờ về mọi vấn đề trong đời sống, từ chính trị đến tôn giáo, từ thơ văn đến nhiếp ảnh và cũng nói khá lâu về internet. Ngoại trừ môn internet tôi giỏi hơn Cha, bộ môn nào Cha cũng rất uyên bác và sở hữu một hiểu biết bao la, vượt xa những kiến thức còn rất giới hạn của tôi. 
Thời gian ngắn sau đó Cha Trần Cao Tường gởi tặng tôi các tác phẩm đã in của ngài. Ngoài các tác phẩm thần học, Cha viết nhiều tác phẩm có tựa đề rất nhẹ nhàng nhưng chuyên chở những nội dung giáo dục và đạo đức rất sâu sắc không chỉ dành riêng cho độc giả Công Giáo mà cho mọi người như Suối Nguồn Tình Yêu, Đi Tìm Nét Văn Hóa Việt, Vũ Khúc Thăng Ca, Nhịp Múa Sông Thanh, Khúc Sáo Ân Tình v.v.. Mỗi khi có dịp thưa chuyện với Cha cũng là lúc tôi học được thêm nhiều điều mới lạ. Tôi giới thiệu Cha với nhiều văn nghệ sĩ thân hữu ở California, Texas v.v.. và ai cũng quý mến Cha." 
Linh mục Trần Cao Tường mà tôi vẫn nghe tiếng lòng của Ngài đã một thời chia sẻ rằng Ngài quý mến Trần Trung Đạo và tôi, ngài biết cả hai chúng tôi đều là phật tử, nhưng ngài không thấy sự cách biệt tôn giáo với hai chúng tôi. Tôi cảm mến và cám ơn Ngài cho chúng tôi những cảm nghĩ tốt đẹp như vậy. Tôi xin gửi tư tưởng của Cha Tường nhân dịp này đến Đạo vậy.
Nói đến Trần Trung Đạo, không thể bỏ qua lãnh vực thi ca, tôi như nhiều người vốn thích bài thơ bất hủ "Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười", thơ được nhạc sĩ Võ Tá Hân phổ thành nhạc. Một bài ca nhạc về người mẹ tiêu biểu ngợi ca bóng hình người mẹ bao la. Đạo viết về mẹ anh trong trân quý, trong cảm động tràn dâng: 
"Mẹ là biểu tượng trọn vẹn và tuyết đối của tinh thần Chân Thiện Mỹ. Nếu có một người để chúng ta có thể san sẻ những điều thầm kín, riêng tư nhất, thì người đó phải là mẹ. Nếu có một người có thể tha thứ cho chúng ta dù phạm phải bất cứ một lỗi lầm gì, người đó sẽ là người mẹ. Tôi tin, nếu chúng ta biết dành ý nghĩ đầu tiên của một ngày, thay vì để nghĩ đến chuyện hơn thua, danh lợi nhưng là để nghĩ về mẹ, nghĩ về khuôn mặt của mẹ, tiếng cười của mẹ, lời dặn dò của mẹ hay thậm chí chỉ để gọi tiếng mẹ thôi, chúng ta sẽ có một ngày an lành và hạnh phúc." 
Bạn bè của Đạo biết bà mẹ Hòa Hưng là mẹ nuôi, nhưng trong cái tâm đạo của người con, Đạo rất quý bà như mẹ ruột. 
"Tôi nhớ đến mẹ, người mẹ Hòa Hưng vất vả nuôi nấng bảy đứa con, trong đó tôi là con lớn nhất, trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn. Mẹ tôi bán bánh bèo ở đầu đường để nuôi chúng tôi ăn học. Mẹ tôi tình nguyện đi kinh tế mới ở Sông Bé để các em tôi còn được phép ở lại Sài Gòn học hết bậc phổ thông. Mẹ tôi đi mót lúa, mót khoai gởi về nuôi nấng chúng tôi trong những ngày đói khổ. Thơ gửi mẹ: 

Ðổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, TT. Đạo: 
Ðổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, Bạch Hạc: 
Ðổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười, Bảo Yến: 

“Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người 
Tiếng ai như tiếng lá thu rơi 
Mười năm mẹ nhỉ, mười năm lẻ 
Chỉ biết âm thầm thương nhớ thôi 
Nhấc chiếc phone lên bỗng lặng người 
Giọng buồn hơn cả tiếng mưa rơi 
Ví mà tôi đổi thời gian được 
Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười...” 
Tôi kính yêu mẹ. Mẹ Hòa Hưng là người săn sóc tôi trong những tháng ngày khó khăn nhất của tôi và người đã thôi thúc tôi viết nên bài thơ Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười trong đêm mưa hơn mười năm trước. Tuy nhiên, mẹ của Đổi Cả Thiên Thu Tiếng Mẹ Cười không phải là người đã mang tôi vào cuộc đời này." 
Đạo là người con hiếu thảo, vẹn tròn đạo đức. Đạo đức vốn dĩ là sức mạnh của tâm hồn. Anh kể về mẹ ruột của mình, bóng người mẹ mà anh không thể hình dung ra được, bởi vì: 
"Người mẹ sinh ra tôi đã chết khi tôi còn rất nhỏ. Nhỏ đến nỗi tôi gần 
như không biết mặt mẹ mình. Trong tuần hoàn của vũ trụ, giọt nước còn biết mẹ mình là mây, chiếc lá còn biết mẹ mình là cây, còn tôi thì không. Tôi là đứa bé cô độc, một con người cô độc, không anh em, không chị em. Tôi lớn lên một mình với cha tôi trong cảnh gà trống nuôi con trong căn nhà tranh nhỏ ở làng Mã Châu, quận Duy Xuyên." 
Tôi có viết bài về Đạo, chia sẻ nỗi cảm thông với anh: 
"Đại thi hào Nga Aleksandr Sergeyevich Pushkin là người có những đóng góp to lớn trong việc phát triển ngôn ngữ văn học Nga hiện đại và toàn châu Âu. Ông mất khi mới 37 tuổi nhưng đã để lại nhiều kiệt tác như "Evgeny Onegin", "Con gái viên đại úy", "Con đầm pích", "Boris Godunov",... Ông được coi là biểu tượng của dòng văn học lãng mạn và tả chân của nước Nga và châu Âu thế kỷ 19. Pushkin làm thơ gửi mẹ nuôi mà ông thương, kính trọng như nhũ mẫu của mình: 
Mẹ thân thiết trong những ngày cơ cực 
Nguồn mến thương nâng bước đời con! 
Rừng thông thăm thẳm cô đơn 
Ngóng con ngày tháng mỏi mòn mẹ trông 
Trong phòng khách bên song cửa sổ 
Như người canh, thương nhớ mênh mang 
Tay già lần mũi kim đan, 
Như đang đếm bước thời gian chậm buồn 
Mẹ thẫn thờ nhìn đường thăm thẳm 
Lối cổng vào bỏ vắng từ lâu 
Buồn thương, linh cảm, lo âu 
Lại càng chất nặng thắt đau ngực già... 
(Gửi mẹ nuôi - Thúy Toàn dịch từ Nga ngữ) 
Aleksandr Sergeyevich Pushkin và Trần Trung Đạo 
Tôi nghĩ từ Aleksandr Sergeyevich Pushkin đến Trần Trung Đạo đều có mẫu số chung, dù dưỡng mẫu hay nhũ mẫu, hai nhà thơ đã dành những tâm tư trang trọng nhất cho 2 mẫu người mẹ trong văn học, thực vậy từ Âu sang Á, sự xúc cảm về mẹ cho văn chương mẹ mãi mãi thăng hoa." 
Ngày được tin bà mẹ Hòa Hưng của Trần Trung Ðạo đã ra đi khỏi cuộc đời này. Nhiều bạn bè chia sẻ cùng Đạo dip bà mẹ Hòa Hưng đã mệnh chung trong thanh thản, nhẹ nhàng. Tên thật của bà là Phan Thị Diên, Pháp danh Diệu Hồng, sinh năm 1924 và qua đời ngày 21 tháng 12 năm 2014 tại Hòa Hưng, Sài Gòn, hưởng thượng thọ 91 tuổi. 
Bài thơ bi ai cảm động khác Đạo sáng tác tôi thích là Người Lính Già Vừa Chết Đêm Qua. 
Người lính già Việt Nam 
Vừa mới chết đêm qua 
Trên đường phố San Jose bụi bặm 
Anh đã đi bao nhiêu nghìn dặm 
Ðến nơi đây chỉ để chết âm thầm 
Không một phát súng chào 
Không cả một người thân 
Không ai nói với anh một lời tiễn biệt... 

Tôi gởi anh đôi dòng thơ 
Từ trái tim của một thằng em nhỏ 
Cũng lạc loài lưu lạc như anh 
Chúng ta, hai chiếc lá chung cành 
Bay phơ phất trước từng cơn bão tố 
Ngủ đi anh bình yên nơi chín suối 
Ðau thương nầy em sẽ viết thay anh..." 

Trần Trung Ðạo còn có bài thơ về tình bạn, Những Người Bạn Tôi Chưa Hề Quen: 
Cũng như anh, tôi ngàn đêm thao thức 
Hãi hùng mơ chung một giấc chiêm bao 
Có tiếng quân reo, ngựa hí, kêu gào 
Tiếng xích khua vang, tiếng người rên siết 
Cũng như anh, tôi đôi lần ra biển 
Hướng về Nam mây trắng một màu tang 
Có ai về xoay ngược bánh thời gian 
Cho tôi nhặt những mảnh đời đã mất... 
Trong thơ tôi mùa Xuân chim không hót 
Thu không vàng, Hạ chẳng để yêu đương 
Thơ của tôi là máu rỉ trăm đường 
Là u uất đã chìm sâu trong đất 
Cũng như anh, tôi mười năm đất khách 
Có gì vui đời một kẻ lưu vong 
Khi tôi chết nấm mồ hoang cỏ mọc 
Đã làm gì để lại với non sông ?" 
Trần Trung Đạo suy tư trăn trở về quê hương, cách xa Sài Gòn khoảng mười hai ngàn dặm, anh làm bài thơ Ở Một Nơi Không Có Mùa Xuân: 
“Ở một nơi không có mùa xuân 
Chim chóc cũng chẳng buồn về đậu 
Ngày hai buổi em về qua xóm lạ 
Buồn vương trên tóc nhớ theo chân 
Nắng Sài Gòn từng giọt rưng rưng 
Thời con gái tan theo từng giọt nắng 
Anh ra đi phố phường xưa hoang vắng 
Tháng năm buồn kỷ niệm ngủ không yên... 
Vầng trăng ước trong lòng em vẫn sáng 
Mười năm chờ nghe một tiếng thương yêu 
Em nối tình mình theo mũi chỉ đường kim 
Ðan chiếc áo cho ngày anh trở lại 
Nhưng bóng hạc vẫn nghìn trùng bay mãi 
Ðể giang hà mòn mỏi tiếng thông reo. 

Ði đi anh đừng trở lại đây 
Em sẽ khóc nhưng không hề nuối tiếc 
Chỉ tội nghiệp cho anh một đời thua thiệt 
Gian khổ tù đày để được thế thôi sao?" 
Trần Trung Đạo vượt biên bằng đường biển, bỏ phiếu cho chế độ Cộng Sản bằng chân, văn thơ của anh ngậm ngùi cho quê hương Việt Nam, nhưng rất cứng rắn với người Cộng Sản. Tập sách 600 trang, Chính Luận trình bày những ý tưởng gắn bó với dân tộc Việt Nam, vạch trần những sai trái, những tội ác của ác đảng Cộng Sản Việt Nam, cũng như quân Tàu Cộng Bắc phương, quan điểm anh trình bày bằng văn phong ôn hòa, có những bài viết tâm bút hay những bài thơ mang nỗi xót xa của người dân Việt bị cầm tù quê hương. Tôi tham dự buổi ca nhạc của nhạc sĩ Phạn Văn Hưng tại Little Sài Gòn ngy 12/10/2008, Phạn Văn Hưng hát cho dân tộc Việt Nam trong khát vọng tự do dân chủ, cho người dân hiền hòa bị chế độ Cộng Sản ngược đãi, chà đạp nhân quyền. Buổi ca nhạc đó có bài ca bi ai lắm, bài Đứa Bé Việt Nam Và Viên Sỏi, phổ thơ của Trần Trung Đạo, kể chuyện bất hạnh của cháu bé trong chuyến vượt biên buồn thảm, cha mẹ mất, cháu bơ vơ. Lời thơ ai oán của chuyến vượt biến vượt biển trốn chạy chế độ Cộng Sản, trích dẫn: 

Bên bờ biển Palawan 
Có một em bé gái 
Tuổi mới chừng lên sáu lên năm 
Ðang ngồi đếm từng viên sỏi nhỏ 
Và nói chuyện một mình 
Như nói với xa xăm. 
- Em đến từ Việt Nam 
Câu trả lời thường xuyên và duy nhất 
Hai tiếng rất đơn sơ mà nhiều người quên mất 
Chỉ hai tiếng nầy thôi 
Em nhớ kỹ trong lòng 
Em chỉ ra ngoài Ðông Hải mênh mông 
Cho tất cả những câu hỏi khác 
Mẹ em đâu? 
- Ngủ ngoài biển cả. 
Em của em đâu? 
- Sóng cuốn đi rồi. 
Chị của em đâu? 
- Nghe chị thét trên mui. 
Ba em đâu? 
Em lắc đầu không nói. 
- Bé thức dậy thì chẳng còn ai nữa 
Chiếc ghe nhỏ vớt vào đây mấy bữa 
Trên ghe sót lại chỉ dăm người 
Lạ lùng thay một em bé mồ côi 
Ðã sống sót sau sáu tuần trên biển... 
Đôi dòng tiểu sử về Trần Trung Ðạo, quê quán ở làng Nghi Hạ, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam. Anh theo học phổ thông tại các trường trung học Duy Xuyên, trung học Trần Quý Cáp tại Hội An. Cựu sinh viên Kinh tế và Luật tại Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn. 
Trần Trung Đạo vượt biên bằng đường biển năm 1981, tạm trú tại trại Palawan rồi sang định cư tại Hoa Kỳ. Anh theo học ngành điện toán tại các trường Wentworth Institute of Technology và Boston University rồi làm kỹ sư điện toán cho một công ty đầu tư tài chính tại Boston. 
Trần Trung Đạo làm thơ từ thời còn ở Việt Nam. Tại Hoa Kỳ ông bắt đầu tham gia các sinh hoạt văn hóa, tuổi trẻ trong mạng lưới Internet từ cuối thập niên 80. 
Đạo có nhiều đóng góp vào nỗ lực xây dựng các phong trào trẻ tại hải ngoại từ đầu thập niên 90 đến nay và thường xuyên tham gia thuyết trình về các chủ đề tuổi trẻ tại các cộng đồng Việt Nam, các hội nghị nhân quyền, tại các đại học, tổng hội sinh viên, trại hè sinh viên. 
Tác phẩm anh xuất bản: 
Giấc mơ Việt Nam (văn) 
Ðổi cả thiên thu tiếng mẹ cười (tập thơ) 
Thao thức (tập thơ) 
Thơ Trần Trung Đạo (tập thơ) 
Tâm bút Trần Trung Đạo (văn) 
Mao Trạch Đông, cuộc đời chính trị và tình dục (lược dịch) 
Chính luận Trần Trung Đạo (văn, Nhà xuất bản Cổ Loa, 2014) 
Trong tiểu luận của Trần Trung Đạo về Giấc Mơ Việt Nam, trích dẫn tiêu biểu: 
"Câu chuyện thành công của nước Mỹ, đúng như Roger Rosenblatt viết, đã bắt đầu từ một giấc mơ chung: Giấc Mơ Người Mỹ hay American Dream như chúng ta thường nghe gọi bằng tiếng Anh. American Dream được định nghĩa trong tự điển Wordsmyth như là “một lý tưởng của người Mỹ, nhờ đó, con người nhận được sự giàu có vật chất, bình đẳng, tự do, và các giá trị tương tự (the American ideal that any man or woman may obtain material wealth, equality, freedom, and the like)”. 
American Dream đã giúp nhân dân Mỹ chiến thắng đạo quân tinh nhuệ của Anh Hoàng George III trong cuộc chiến tranh giành độc lập (1775-1783), đã giúp nhân dân Mỹ vượt qua những bất đồng kinh tế chính trị sâu sắc trong thời kỳ chiến tranh nội chiến (1860-1865), đã giúp đưa nước Mỹ trở nên quốc gia có lợi nhất sau cả hai cuộc chiến tranh thế giới. 
American Dream là giấc mơ mà những người cha sáng lập của quốc gia Hoa Kỳ từng ôm ấp và theo đuổi: Tự Do, Dân Chủ và Cường Thịnh. Tổng Thống đầu tiên George Washington đã từng dặn dò: “Tôi mong được thấy Hoa Kỳ mãi mãi là đất nước của tự do và công lý”. Tượng đài kỷ niệm Tổng Thống George Washington được kiến trúc dựa theo tinh thần độc lập, tự chủ và vươn lên đó. 
American Dream là giấc mơ bình đẳng mà Mục Sư Martin Luther King đã đọc trên thềm đài kỷ niệm Lincoln ngày 28 tháng 8 năm 1963: “Tôi mơ một ngày, trên đồi Georgia, con cháu của những người nô lệ cũ, và con cháu của những chủ nô cũ, ngồi lại với chung một bàn trong tình huynh đệ...Tôi mơ một ngày, bốn người con của tôi sẽ được sống trong một đất nước, nơi đó, chúng sẽ không bị phán xét do màu da mà chính bằng tư cách riêng của chúng”. 
American Dream, qua nhiều thời đại, từ những người trên chiếc tàu Mayflower cho đến hôm nay, đã được làm phong phú thêm để trở thành một bản sắc văn hóa, một truyền thống đặc biệt của quốc gia này. 

Trở về với lịch sử Việt Nam, tổ tiên chúng ta, ông bà chúng ta đã bao giờ mơ và theo đuổi Giấc Mơ Việt Nam chưa?... 
Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của những bàn tay khối óc xây dựng nên nền văn hóa Đông Sơn, bắt đầu từ hàng ngàn năm trước, trải dài đến thời điểm cực thịnh vào thế kỷ thứ 5 trước Công Nguyên. Những chiếc trống đồng Đông Sơn, Ngọc Lữ được chạm trổ tinh vi đánh dấu một thời đại vàng son trong tiến trình phát triển văn minh nhân loại. Những cổ vật quý giá đó, không phải chỉ là những biểu tượng cho văn minh dân tộc chúng ta mà còn đại diện cho cả nền văn minh vùng Nam Á đương thời. Chính tinh thần văn hóa Hòa Bình, Đông Sơn đã hun đúc thành sức mạnh dân tộc, để các thế kỷ sau đó, đủ sức đối kháng với sự xâm lăng thô bạo của các nguồn văn hóa mang ý đồ đồng hóa phát xuất từ phương Bắc. 
Thật vậy, mặc dù hơn một ngàn năm trong bóng đêm nô lệ nhà Hán, nhà Ngô, nhà Đường với bao nhiêu cực hình đày đọa, sáng xuống bể tìm ngọc châu, chiều lên non săn ngà voi, trầm hương, châu báu, dân tộc Việt vẫn bảo vệ được tính độc lập, vẫn giữ được bản sắc văn hóa Việt trong sáng và thuần nhất. Đất nước chúng ta đã hơn một lần bị mất đi và giành lại được nhưng chúng ta hãnh diện nói lớn rằng dân tộc Việt Nam chưa bao giờ bị mất gốc. Hiếm có trên một đất nước nào, ở đó, tên của một con sông, một ngọn núi, một thôn làng, cũng có thể làm cho người dân khi nhắc đến phải rơi nước mắt. Những Phong Hóa, Nam Quan, Mê Linh, Bạch Đằng, Vạn Kiếp, Thiên Trường, Diên Hồng, Chi Lăng, Lam Sơn, Đống Đa, v.v... không phải chỉ đơn giản là những địa danh lịch sử, mà hơn thế nữa, còn là là nơi giữ gìn anh linh hùng khí của dân tộc chúng ta. Hình ảnh những chiếc búa, những chiếc rìu, những mũi thương, mũi đao, mũi tên bằng đồng đào được ở vùng Trung Châu, Bắc Việt, ở Sông Bạch Đằng, dọc Ải Nam Quan không chỉ là những cổ vật mà còn là chứng tích của bao nhiêu trận mạc, bao nhiêu cuộc chiến đấu, bao nhiêu máu xương và nước mắt của tổ tiên Lạc Việt đã đổ xuống trước áp lực của các triều đại Bắc phương xâm lấn khác. 
Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của hai người phụ nữ Việt đất Mê Linh uy danh lừng lẫy, đã can đảm thắp lên ngọn lửa tự do cho dân tộc. Một ngàn năm trăm năm trước Jeanne d'Arc, người phụ nữ Pháp lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống ách cai trị của người Anh, tại vùng Đông Á đã có hai người phụ nữ Lạc Việt, Trưng Trắc và Trưng Nhị phất cờ khởi nghĩa chống nhà Hán và lập nên một triều đại huy hoàng. Dù chỉ trị vì được 3 năm, tinh thần “giặc đến nhà đàn bà phải đánh” của hai bà đã trở thành truyền thống yêu nước tồn tại đến ngày nay. 
Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của các bô lão được Vua Trần Thánh Tông triệu đến Điện Diên Hồng để hỏi ý trước cuộc xâm lăng của đại quân Mông Cổ vào tháng Chạp năm 1284. Lần đầu tiên trong lịch sử, sức mạnh dân tộc Việt thể hiện không chỉ bằng lòng yêu nước nhưng còn bằng tinh thần dân chủ. Chính sức mạnh tổng hợp vô địch của lòng yêu nước và tinh thần dân chủ đã đẩy lui bao nhiêu vạn hùng binh Mông Cổ trong ba cuộc chiến chống quân Nguyên lừng lẫy. Thượng Hoàng Trần Thánh Tông đã cảm khái sau cuộc kháng Nguyên lần thứ hai: 
Xã tắc hai phen bon ngựa đá 
Non sông muôn thưở vững âu vàng 
Giấc Mơ Việt Nam là giấc mơ của Bình Định Vương Lê Lợi sau ba lần tổn thất phải lui về tử thủ Chí Linh. Quân kháng chiến đã phải đào củ chuối, giết ngựa chiến mà ăn. Suốt mười năm nằm gai nếm mật đầy hy sinh gian khổ, khi hòa khi chiến, lúc cương lúc nhu, tổ tiên chúng ta trong thời đại nhà Lê cuối cùng đã giữ được Giấc Mơ Việt Nam còn sống. Nguyễn Trãi đã kết luận trong Bình Ngô Đại Cáo: “Xã tắc từ đây vững bền, giang sơn từ đây đổi mới, càn khôn bĩ rồi lại thái, nhật nguyệt hối rồi lại minh, ngàn năm vết nhục nhã sạch làu, muôn thuở nền thái bình vững chắc, âu cũng nhờ trời đất tổ tông linh thiêng đã lặng thầm phù trợ”. Sử gia Phạm Văn Sơn trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã nhận xét về Giấc Mơ Việt Nam: “Và cũng có thể nói rằng những cuộc hưng vong thê thảm này đã hun đúc cho dân tộc chúng ta một tinh thần tranh đấu bền bỉ, để tồn tại đến ngày nay, oanh liệt dưới vòm trời Đông Nam Á”...." 
Giấc Mơ Việt Nam - Mê Linh- Chí Linh 
Bài viết này xin kết thúc bằng “Giấc Mơ Việt Nam” của Trần Trung Đạo đã đưa ra hình ảnh tiêu biểu của được giấc mơ Việt Nam: 
Nếu nước Hoa Kỳ được thành lập từ những giấc mơ của người dân các nơi đến đây đóng góp và xây dựng, và những giấc mơ đó đã được thực hiện hoàn mỹ tạo đất nước này thành công để là một quốc gia vĩ đại, thật sự hùng mạnh và phú cường. 
Nếu giấc mơ của Tổng thống đầu tiên Hoa Kỳ Geogre Washington mơ rằng: ”Tôi mong được thấy Hoa Kỳ mãi mãi là đất nước của tự do và công lý”, để rồi nước này thành công vĩ đại vì bởi những giá trị của sự tự do, công bình, dân chủ và nhân quyền. 
Nếu giấc mơ về công bình xã hội của Mục sư Martin Luther King rằng: “Tôi mơ một ngày, trên đồi Georgia, con cháu của những người nô lệ cũ, ngồi lại chung một bàn trong tình huynh đệ... Tôi mơ một ngày, bốn người con của tôi sẽ được sống trong một đất nước, nơi đó, chúng sẽ không bị phán xét do màu da mà chính bằng tư cách riêng tư của chúng”. 
Xin Đấng tạo hóa trên cao phù trợ cho giấc mơ Việt Nam của Trần Trung Đạo được như giấc mơ Hoa Kỳ để Việt Nam ta sớm có được tự do, dân chủ và nhân quyền, để Việt Nam ta sớm có được hùng mạnh và phú cường, và 
để Việt Nam ta sớm có được sự bình đẳng, không bị kỳ thị "hồng hơn chuyên", bị kỳ thị chênh lệch xã hội do quyền thế lãnh đạo, do tham quyền nhũng lạm. 
Sau cùng, lời riêng xin chúc mừng Trần Trung Đạo mang tác phẩm "Chính Luận" về Nam Cali được đón nhận nồng nhiệt. 

Trần Việt Hải 
Los Angeles, 15/01/2015

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét