Chủ Nhật, 27 tháng 5, 2012

Cho vừa lòng nhau


CHỊ CHỊU THUA EM CHƯA?
Một mục đích quan trọng của ngôn ngữ là để giao hảo. Muốn đạt được mục đích ấy, ngôn ngữ phải ngọt ngào, phải lễ độ để đẹp lòng người nghe. Đồng nghĩa với động từ “nói ngọt” của tiếng Việt, động từ “sweet-talk” trong tiếng Mỹ cho thấy rằng sự khôn khéo trong lời ăn tiếng nói rất có hiệu nghiệm trong việc thuyết phục người khác làm những chuyện có lợi cho mình – điển hình như lời một người Mỹ khôn ngoan giải thích với bạn bè tại sao ông ta mới được tăng lương: “Well, I simply sweet-talked my boss into giving me a pay raise and she did!” Người Mỹ cũng có khuynh hướng dùng uyển ngữ để làm nhẹ bớt đi những ý nghĩ tiêu cực của ngôn từ. Thí dụ, thay vì dùng chữ “garbage collector” để diễn tả một công việc làm không được trọng vọng cho lắm, người Mỹ sử dụng chữ “sanitation engineer” nghe dễ thương hơn nhiều. Họ cũng rất mặc cảm với tuổi già, cho nên khi áp dụng để tả một người tuổi đã cao, tính từ “old” làm người nghe buồn lòng không ít. Vì vậy các bậc cao niên tại Mỹ được gọi là “senior citizens” một cách trịnh trọng. Người Mỹ da đen không thích người khác gọi mình bằng màu da, nên ngày nay các chính trị gia khôn khéo gọi họ là “African Americans.”
Không ngôn ngữ nào khác có thể so với Việt ngữ về bản chất đa dạng, đa năng của đại danh từ xưng hô ngôi thứ nhất số ít. Quả thực, trong khi đại đa số ngôn ngữ chỉ sử dụng một dạng cho ngôi này, như “je” trong Pháp ngữ, “I” trong Anh ngữ, “ich” trong Đức ngữ, và “wo” trong Hoa ngữ quan thoại, Việt ngữ chúng ta có cả một kho tàng xưng hô cho ngôi thứ nhất số ít ngoài đại danh từ “tôi” thông thường. Mỗi dạng khác nhau của đại danh từ “tôi” nói lên được mối liên hệ đặc biệt giữa người nói và người nghe. Con cái chẳng bao giờ dám xưng “tôi” với cha mẹ, cũng như học trò chẳng hề xưng “tôi” với thầy giáo. “Tao” chỉ có thể thay thế cho “tôi” giữa các bạn bè thân nhất hoặc trong các cuộc chửi bới lẫn nhau. Tất cả các danh từ diễn tả mối liên hệ họ hàng như “bố, mẹ, chú, bác, cô, cậu, ông nội, bà ngoại” vân vân đều có thể được dùng làm đại danh từ xưng hô ngôi thứ nhất. Và một nét rất đặc thù của tiếng Việt là tên người đang nói có thể được dùng làm đại danh từ xưng hô thay cho “tôi.”
Còn ngôi thứ hai số ít của đại danh từ xưng hô trong tiếng Việt thì sao? Nhiều ngôn ngữ trên thế giới có ít nhất là hai dạng cho ngôi này, một dạng thân mật và một dạng trang trọng. Tiếng Pháp có “tu” và “vous”, tiếng Đức có “du” và “Sie”, tiếng Tây ban nha có “tú” và “usted”, và tiếng Tàu quan thoại có “ni” và “nin.” Các động từ “mày tao chi tớ” trong tiếng Việt, “tutoyer” trong tiếng Pháp, và “tutear” trong tiếng Tây ban nha đều diễn tả hành động dùng các dạng thân mật để xưng hô giữa bạn bè hoặc bà con thân thích. Cũng giống như trường hợp ngôi thứ nhất, ngôi thứ hai của đại danh từ trong tiếng Việt đa diện, đa năng hơn hẳn nhiều ngôn ngữ khác. Mỗi dạng của ngôi này nói lên được mối liên hệ đặc biệt giữa người nói và người nghe. Những danh từ diễn tả mối liên hệ họ hàng (bác, chú), những tước vị (bác sĩ, đại úy), cũng như tên người (Lan, Tuấn) đều có thể dùng làm đại danh từ xưng hô ngôi thứ hai.
Hiển nhiên, muốn đẹp lòng người nghe, người nói phải lựa chọn đại danh từ xưng hô cho phù hợp. Khi một người trẻ nói chuyện với những người lớn tuổi bằng cha mẹ, bằng ông bà mình mà xưng hô “tôi” với họ thì người trẻ ấy hoặc quả thực quá kém tiếng Việt hoặc cố tình cư xử vô lễ. Người viết bài này đã nhiều lần vô cùng bực tức khi thấy một người còn trẻ trên bục thuyết trình mở đầu cuộc nói chuyện với đủ mọi lứa tuổi từ rất trẻ đến rất già với câu mở đầu hỗn xược “Thưa toàn thể anh, chị, em”! Người trẻ ấy có tước vị gì đi chăng nữa thì cũng chỉ là một phường thiếu giáo dục.
Trong lãnh vực thương mại và hành chánh, cách xưng hô trang trọng lại càng cần thiết. Người Pháp thường kết thúc một lá thư thương mại hoặc hành chánh bằng câu “Veuillez agréer, Monsieur/Madame, l’expression de nos sentiments les plus chaleureux” (“Xin Ông/Bà nhận cho sự biểu lộ những cảm tình nồng hậu nhất của chúng tôi”). Người làm thương mại tại các nơi sử dụng tiếng Tây ban nha còn lễ độ hơn nữa. Trước khi họ ký tên vào lá thư cho thân chủ, họ tự nhận họ là những “atentos seguros servidores” (“tôi đòi trung kiên và đầy quan tâm”) của các thân chủ của họ!
Văn hóa nào cũng biết nói lên lòng tri ân đối với ân huệ. Người Đức dùng động từ “danken” và người Mỹ dùng động từ “thank.” Hai động từ này từa tựa âm thanh như hai động từ “denken” và “think” có nghĩa là “suy nghĩ.” Phải chăng các dân tộc ấy nghĩ ngợi nhiều mỗi khi họ tri ân những ai đã ban ân huệ cho họ? Từ ngữ “arigato” để cám ơn của người Nhật nghĩa đen là “có khó khăn.” Hiển nhiên “khó khăn” ở đây mô tả nỗi nhọc nhằn của người mình mang ơn khi làm ân huệ cho mình. Người Việt chúng ta bầy tỏ lòng tri ân cũng mặn nồng không kém, chẳng hạn, “Tôi đội ơn ông đời đời!” Câu nói đó chắc sẽ làm vừa lòng người nghe lâu dài. Chúng ta không những chỉ “biết” mà còn “mang” trong người hoặc “đội” trên đầu cái ơn ấy!
Cách thức đáp lại lời tri ân cũng có thể làm người nghe yên dạ. Nhiều người Tây phương cũng như người Việt đáp “Không có chi!” Và để trấn an người nhận ân huệ hơn thế nữa, người Tây phương có thể dùng những lời nói ngoại giao như “Niềm vui đó là của tôi!” Chúng ta cũng có một lời đáp lại sự “đội ơn” một cách rất khiêm cung là “Tôi không dám!”
Trong mối tương quan giữa khách và chủ, người Tàu vô cùng thận trọng. Tiếng quan thoại dùng từ ngữ “kechi” (tức là “khách khí” nếu phát âm kiểu Hán Việt) để nói lên cách cư xử của người khách: lễ độ, lịch duyệt, khiêm cung, đầy cảm thông, và để tâm đến người khác. Để người khách được thoải mái hơn, người chủ dùng thành ngữ phủ định “bukechi” (“bất khách khí”), tương đương với câu “Xin đừng làm khách” của người Việt. Trong văn hóa Tàu, “kechi” liên hệ mật thiết với “lijiao” (“lễ giáo”), và nguồn gốc của “li” (“lễ”) xuất phát từ đời nhà Chu cách đây hơn ba ngàn năm rồi. Do ảnh hưởng văn hóa Tàu, người Việt chúng ta ưa dùng những thành ngữ Hán Việt khiêm tốn như “tệ xá, tiện nội, thiển ý” vân vân khi chúng ta nói về chúng ta, và những thành ngữ Hán Việt trang trọng như “quý quyến, lệnh ái, tôn ý” vân vân khi chúng ta nói với khách của chúng ta. Người Tây phương cũng muốn cho khách của họ cảm thấy thoải mái trong cuộc giao tiếp, nhưng ngôn từ của họ ít khách sáo hơn ngôn từ Đông phương. Nếu người Mỹ nói thẳng ra “Xin cứ coi như ở nhà” (“Please make yourself at home”) thì người Tây ban nha còn nói rõ hơn thế nữa: “Nhà của tôi là nhà của ông” (“Mi casa es su casa”).
Các cụ ngày xưa khi thấy con cháu nói năng bừa bãi làm phật lòng người nghe một cách vô tích sự đã có lời khuyên răn họ rằng “Lời nói chẳng mất tiền mua / Lựa lời mà nói cho vừa lòng nhau.” Một lời khuyên chí lý biết bao!
Đàm Trung Pháp

Thứ Bảy, 26 tháng 5, 2012

Học Tiếng Việt


Tại sao cần học tiếng Việt?


Ðể duy trì tiếng Việt ở hải ngoại, một trong những câu hỏi quan trọng nhất cần được trả lời là: Tại sao trẻ em Việt Nam cần học tiếng Việt?



Các em học tiếng Việt tại một trung tâm Việt ngữ tại Quận Cam, California, Hoa Kỳ. (Hình: Linh Nguyễn/Người Việt)


Câu hỏi ấy không những chỉ nảy sinh ra từ các em học sinh mà còn từ chính các bậc phụ huynh, tức những người thuộc thế hệ thứ nhất, sinh ở Việt Nam và chỉ ra sống ở nước ngoài khi đã trưởng thành hẳn.

Trẻ em (ví dụ trẻ em ở Úc/Mỹ) thường lý luận
: Con sinh ở Úc/Mỹ, con sẽ sống suốt đời ở Úc/Mỹ. Ngôn ngữ thứ nhất của con là tiếng Anh. Mà tiếng Anh lại là ngôn ngữ quốc tế; ở đâu cũng sử dụng được. Con đâu cần phải học thêm tiếng Việt làm gì nữa?

Cha mẹ thì lý luận: Ờ, cũng phải. Con cái bây giờ đã là người Úc/Mỹ rồi. Tiếng Anh mới quan trọng. Tiếng Việt thì biết cũng được; không biết cũng chả sao. Ngay cả khi biết tiếng Việt thì cũng chỉ để giao tiếp với người thân, chủ yếu với ông bà, thôi. Chứ làm được gì?

Những kiểu lý luận như vậy rất phổ biến
.

Tuy nhiên, chúng lại sai
.

Sai trên tất cả phương diện: kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và nhận thức.

Về phương diện kinh tế, đã đành tiếng Việt không được xem là một ngôn ngữ thương mại như nhiều thứ tiếng khác (chẳng hạn, tiếng Nhật hay tiếng Hoa); tuy nhiên, việc thành thạo tiếng Việt ở mức độ nào đó, chắc chắn không phải vô ích trong một xã hội đa văn hóa và đa ngôn ngữ như Úc hoặc Mỹ (hoặc bất cứ một quốc gia hiện đại nào khác). Ðối với rất nhiều nghề nghiệp, cộng đồng người Việt gồm trên 200,000 người ở Úc, và trên 1.6 triệu ở Mỹ là một thị trường to lớn. Cứ nhìn vào số phòng mạch, văn phòng luật sư hay kế toán ở các khu người Việt thì thấy ngay. Hoặc hãy vào các ngân hàng ở các khu đông người Việt mà xem: Có phải có rất nhiều nhân viên người Việt hoặc biết nói tiếng Việt? Ðể xin việc, bất cứ là việc gì, từ của chính phủ đến tư nhân, ở các khu nhiều người Việt định cư, khả năng tiếng Việt đều trở thành một trong những ưu tiên hàng đầu.

Nhưng ý nghĩa kinh tế của tiếng Việt không chỉ nằm ở những công việc có liên quan trực tiếp đến người Việt như thế. Tại hầu hết các nước Tây phương, càng ngày người ta càng hiểu và đánh giá cao ý nghĩa và giá trị của các nhận thức liên văn hóa, tức khả năng cảm nhận được những khác biệt giữa các nền văn hóa và khả năng đồng cảm với suy nghĩ của những người thuộc các nền văn hóa khác. Ví dụ, trong xu hướng toàn cầu hóa hiện nay, bất cứ một sản phẩm nào của Tây phương cũng đều được sản xuất để bán cho những người tiêu thụ thuộc nhiều quốc gia khác nhau, có khi ở tận Châu Á, Châu Âu hay Châu Phi xa xôi. Muốn bán được, người ta phải nghĩ đến chuyện đáp ứng thị hiếu của những người đó. Ai có khả năng làm được những việc như thế? Về phương diện chuyên môn, họ phải được học. Tuy nhiên, về phương diện tâm lý: những người ấy thường phải là những người song ngữ (bilingual) hoặc song văn hóa (bicultural). Nếu được đa ngữ (polyglot) hoặc đa văn hóa nữa thì càng tốt. Ý thức được điều đó, ở Tây phương, hầu hết các trường đại học đều khuyến khích sinh viên học một ngôn ngữ thứ hai hoặc nếu không, tham gia vào các chương trình trao đổi để có dịp đi nước ngoài một thời gian, ít nhất một học kỳ, để có cơ hội phát triển sự hiểu biết liên văn hóa (intercultural understanding) và kỹ năng giao tiếp liên văn hóa (intercultural communication); ở cấp tiểu học và trung học, việc dạy ngôn ngữ thường đi kèm với việc rèn luyện ý thức liên văn hóa (intercultural awareness).

Về phương diện xã hội, nhiều bậc phụ huynh cứ nghĩ miễn con cái có thể bập bẹ được chút tiếng Việt để nói chuyện trong nhà là đủ rồi. Nhưng thật ra, với việc giao tiếp trong gia đình, mức độ thông thạo một ngôn ngữ, kể cả tiếng Việt, khó xác định thế nào là đủ. Khi con cái còn nhỏ, nhu cầu còn đơn giản, việc trao đổi và chuyện trò giữa bố mẹ và con cái thường chỉ dừng lại ở những đề tài căn bản trong đời sống hàng ngày, kiểu: Con đói không? Con muốn ăn gì? Phở nhé? Hoặc: Con học bài đi; con đi ngủ đi, v.v... Khi con cái lớn lên, đặc biệt ở giữa những năm trung học, khi, về phương diện tình cảm, các em bắt đầu biết yêu, biết vấn vương trước người khác phái; và về phương diện tâm lý, có những cuộc khủng hoảng về vấn đề bản sắc và ý nghĩa của cuộc đời, đề tài các em cần tâm sự càng ngày càng phức tạp hơn. Chính những lúc ấy, việc giao tiếp giữa bố mẹ và con cái trở thành một vấn đề, hơn nữa, vấn đề lớn: nếu nói bằng tiếng Việt thì các em không đủ từ vựng để diễn tả; nếu các em nói bằng tiếng Anh thì bố mẹ thường không hiểu hết. Một lúc nào đó, các em không còn tâm sự với bố mẹ được nữa. Quan hệ giữa bố mẹ và con cái, do đó, càng ngày càng xa cách dần. Khi con cái xa cách bố mẹ như thế, chúng đối diện với rất nhiều nguy cơ, trong đó, nguy cơ quan trọng nhất là rất dễ bị bạn bè lôi kéo vào con đường xấu.

Về phương diện văn hóa, tiếng Việt - cũng như bất cứ ngôn ngữ thứ hai nào - có rất nhiều ý nghĩa. Thứ nhất, nó bảo vệ được bản sắc (identity) của các em. Với những người lớn tuổi, dù sống ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, chúng ta vẫn biết chúng ta là người Việt. Ðó chính là căn-cước-tinh-thần của chúng ta. Trẻ em, lúc còn bé, dễ có ý nghĩ mình là một người Úc hoặc một người Mỹ. Nhưng, lớn lên, các em biết ý nghĩ đó chỉ là một ảo tưởng. Mái tóc, làn da, màu mắt và kích thước của các em luôn luôn tố giác một điều ngược lại: Các em vẫn là người Việt. Nếu biết tiếng Việt, ý thức về bản sắc sẽ dễ được củng cố. Nhưng nếu không, các em sẽ trở thành những kẻ thất cước, bơ vơ. Ðiều đó rất dễ dẫn đến những khủng hoảng về tâm lý. Thứ hai, biết tiếng Việt, trở thành người song ngữ, các em dễ trở thành bao dung hơn trước các nền văn hóa khác, do đó, dễ hội nhập vào đời sống xã hội càng ngày càng toàn cầu hóa với tốc độ cực nhanh như hiện nay. Trước mắt, sự hội nhập ấy có thể thấy ngay ở việc hội nhập vào đời sống gia đình, đại gia đình (với ông bà và bà con, họ hàng) cũng như với cộng đồng.

Về phương diện giáo dục, nhiều công trình nghiên cứu trên thế giới cho thấy học sinh và sinh viên biết hai thứ tiếng trở lên thường học giỏi hơn học sinh và sinh viên chỉ biết một thứ tiếng. Có lẽ điều đó tương đối dễ hiểu. Thứ nhất, học hai thứ tiếng cùng lúc (ví dụ tiếng Anh và tiếng Việt), trí nhớ của các em thường xuyên được luyện tập, do đó, các em thường cường ký hơn các trẻ em khác. Thứ hai, biết hai thứ tiếng, thường xuyên chuyển dịch và so sánh tiếng này và tiếng kia, khả năng so sánh của các em có nhiều cơ hội để phát triển. Mà so sánh lại là một khía cạnh quan trọng của lý luận: Trẻ em biết hai thứ tiếng, do đó, thường nhìn vấn đề từ nhiều góc độ khác nhau, do đó, tránh được bệnh phiến diện, hẹp hòi và cực đoan. Riêng với trẻ em Việt Nam, cũng như hầu hết trẻ em di dân khác, việc tiếp tục học và học giỏi tiếng mẹ đẻ, giúp các em thêm tự tin hơn trong học vấn: Ðó là môn học các em dễ đạt điểm cao, do đó, dễ chứng tỏ mình giỏi hơn hẳn người ngoại quốc.

Cuối cùng, về phương diện nhận thức, càng ngày càng có nhiều công trình nghiên cứu cho thấy việc biết hai thứ tiếng làm cho người ta thông minh hơn (being bilingual, it turns out, makes you smarter.) Trong số các công trình nghiên cứu ấy, đáng kể nhất là cuộc nghiên cứu của hai nhà tâm lý học Ellen Bialystock và Michelle Martin-Rhee vào năm 2004: Họ chia các học sinh mẫu giáo thành hai nhóm; một nhóm chỉ biết nói tiếng Anh và một nhóm nói được hai thứ tiếng, tiếng Anh và một thứ tiếng nào khác. Họ cho các em một số vật tròn màu xanh và một số vật vuông màu đỏ rồi yêu cầu các em bỏ vào hai thùng, một thùng vuông màu xanh và một thùng tròn màu đỏ. Trước hết, họ yêu cầu các em chọn theo màu: vật xanh bỏ vào thùng xanh; vật đỏ vào thùng đỏ. Tất cả các em đều làm được. Sau đó, họ yêu cầu các em sắp xếp cách khác, theo hình dạng: vật vuông bỏ vào thùng vuông và vật tròn bỏ vào thùng tròn. Ðến lúc ấy, các em chỉ biết một ngôn ngữ lúng túng hẳn vì thấy các vật cùng hình dạng thì không cùng màu sắc. Trong khi đó, với các em biết hai ngôn ngữ, công việc ấy được hoàn tất rất nhanh chóng. Người ta lý giải hiện tượng này như sau: các em biết hai thứ tiếng thường biết rõ là mình biết hai thứ tiếng. Ví dụ, đang nói chuyện với anh chị em bằng tiếng Anh; quay sang nói chuyện với bố mẹ, các em sử dụng tiếng Việt. Tất cả diễn ra một cách tự phát. Ðiều đó vô tình giúp phát triển chức năng điều hành trong bộ óc của các em. Các em phân biệt được dễ dàng những công việc hay những vấn đề có nhiều khía cạnh khác nhau. Ví dụ, trong thí nghiệm kể trên, các em song ngữ hiểu ngay là sắp xếp theo màu thì khác và theo hình dạng thì khác; còn các em chỉ biết một thứ tiếng thì khi được yêu cầu sắp các vật theo hình dạng lại cứ loay hoay về màu sắc, do đó, không dám bỏ các vật tròn màu xanh vào cái thùng tròn màu đỏ; và ngược lại: nói cách khác, nếp suy nghĩ của các em được định hình có một chiều.

Gần đây, nhiều nhà nghiên cứu thuộc nhiều quốc gia khác nhau, từ Tây Ban Nha đến Ý và Mỹ, trong nhiều cuộc thí nghiệm với những người thuộc nhiều lứa tuổi khác nhau, từ trẻ sơ sinh đến trẻ em bậc tiểu học, trung học, đại học và cả những người luống tuổi, đều đi đến những kết luận tương tự: khả năng song ngữ làm cho người ta suy nghĩ nhanh, chín chắn và toàn diện hơn việc chỉ biết một ngôn ngữ duy nhất.

Những lý do nêu trên đủ để chúng ta khuyến khích trẻ em học tiếng Việt chứ?

Tôi hy vọng vậy.

Nguyễn Hưng Quốc (Blog VOA)

Thứ Sáu, 18 tháng 5, 2012

Memorial Day


Hình ảnh đã đăng

Memorial Day

cuối tháng năm, nghĩa trang buồn tiếng gió
vườn mộ Người hoa nở đỏ trong tim
những tiếng khóc lặng yên vừa trở giấc
nghe thân thương theo mạch đất rong tìm

tìm Người đến nơi cõi về vĩnh viễn
khoát tay chào trận tuyến phía sau lưng
giữa ánh nến chập chùng đêm đưa tiễn
hoa trao Người từng cánh lệ rưng rưng!

Memorial Day - nhớ Người, ta về phố
thành phố bình yên hoa nở bốn mùa
trời cuối tháng năm, đất buồn nhịp thở
vi vu thầm câu chuyện chiến trường xưa

nghe rõ cả những ước mơ rơi vỡ
trong những trái tim ngóng đợi giao mùa
mùa của lúa xanh mọc trên lửa đỏ
mùa của sen hồng ngát giữa hố bom

mỗi giao mùa, tim quặn nghìn tiếng nấc
chiến tranh đau và nhức nhối hòa bình
Người ở giữa thành phố này rất thật
một đời đi tất bật đến vô thường!

Cao Nguyên


Thứ Năm, 17 tháng 5, 2012

bay qua hoàng hôn



bay qua hoàng hôn 

trừ ba giờ . cộng ba giờ 
hoàng hôn nối giữa hai bờ Đông - Tây 
bờ Đông chưa khép bóng ngày 
bờ Tây đã ửng vàng mây bềnh bồng 

qua khung cửa . ngắm thinh không 
hai chiều đảo gió dưới lòng cánh bay 
lạnh chườm ngoài mảng kiếng dày 
thèm ơi . một cốc ấm đầy men xuân 

bao lần đi với tần ngần 
sao còn lạ với nỗi trầm tâm tư 
âm vang xưa mấy điệu cười 
qua thời gian trở đã rời cánh môi 

xuống lên còn níu bồi hồi 
e buông sợ mất khoảng đời ngụ ngôn 
đến đi trên rặng hoàng hôn 
ngắm qua ngẫm lại . thấu vòng chuyển lưu! 

Cao Nguyên 

Washington.DC - California, May 2012 

Thứ Ba, 15 tháng 5, 2012

Hội chứng hậu thuộc địa


 
Trường y khoa Hà Nội 



Tháng tư, 1956, người Pháp chính thức cuốn cờ và triệt thoái khỏi miền Nam Việt Nam chấm dứt chế độ thực dân Pháp sau ngót một thế kỷ. 80 năm có lẻ ở Nam Kỳ và 60 năm ở Bắc Kỳ.
Miền Nam lúc bấy giờ có khoảng 7000 người Việt-quốc tịch Pháp. Người ta ghi nhận đã có hơn 6000 người trong số đó xin hồi tịch.
Những người có "máu mặt" như quý ông đại sứ Trần Văn Chương, y sĩ Trần văn Đôn, cha ruột của tướng Trần Văn Đôn và một số sĩ quan như tướng Trần Văn Minh, Trần Văn Đôn đều hồi tịch, tự động xé bỏ quốc tịch Pháp.
Đây có thể coi như cuộc trở về của một số "đứa con hoang đàng" (Enfant prodige) theo một nghĩa trong Thánh Kinh đã kể lại- một sự trở về nhà cha như một cuộc làm hòa giữa quá khứ-tương lai-. Quá khứ thì khép lại, tương lai thì mở ra.
Nhưng xé bỏ một tờ căn cước có đủ để người ta quay trở về cội nguồn với con người Việt Nam không? Xóa đi một cái ranh giới địa lý hay ranh giới pháp lý chỉ cần làm một cử chỉ "cái roẹt" là xong, nhưng cái ranh giới tinh thần là công việc còn lại của mỗi người, có khi làm cả đời không xong !!
Cuộc hồi tịch này diễn ra thầm lặng đến nhiều người không hay biết vì không ai muốn nó được công khai hóa trên mặt báo và được hiểu là một điều đương nhiên phải như thế.
Chế độ thực dân chính thức không còn nữa và người Mỹ đến thay thế chỗ của người Pháp.
Phần ông Diệm- ở bình diện cơ chế- coi như ông đã thực hiện được hai bước trong tiến trình ba bước chính trị của ông: Bài Phong, Phản Đế, Diệt Cộng.
Nhưng ở mặt tinh thần, nước Pháp xa cách  Việt Nam 16.000 cây số, vậy mà về mặt tâm tư thì nhiều người Việt Nam sinh sống ở VN cảm thấy "gần" nước Pháp hơn là người hàng xóm của mình. Cựu Thủ tướng Trần Văn Hữu còn đi xa hơn, vào năm 1946 có chủ trương tách Nam Việt Nam ra khỏi Quốc Gia VN. Những người như thế đã được ông Bảo Đại mời ra lập chính phủ vào ngày 6-5-1950!! 
Chưa kể tệ hại hơn nữa, nhiều người Việt-gốc Pháp còn khinh văn hóa Việt, lối sống Việt vì họ coi là quê mùa, hủ lậu..  Điển hình như trong Lục tỉnh Tân Văn, số hai, có bài viết lên giọng dạy đời nhận xét:
" Người Annam hay dùng chữ Nho mà ta ít hay hiểu lý cao kỳ...ăn cắp chữ Tàu dùng qua chữ Quốc Ngữ ... song việc dùng câu chữ Tàu như vậy thì chẳng phải lẽ, thiếu gì cách nói, sao lại dùng tiếng chi bậy bạ vậy?" (
Trích bài Dùng sái nghĩa, LTTV, số 2 trong Tuyển tập các số LTTTV.)

Thứ Sáu, 11 tháng 5, 2012

MẸ ƠI


MẸ ƠI 


Trời nghiêng - Đất cũng trở mình 
Mẹ đi vào cõi vô hình lặng câm 
yêu thương rời khỏi chỗ nằm 
chỉ còn tiếng khóc lăn trầm vào tim 
thế gian bỗng chốc im lìm 
đời con trăn trở suốt miền ấu thơ 
vọng buồn điệp khúc ... ầu...ơ... 
nghe xao xuyến chảy ngập bờ nhớ thương 
Mẹ đi bỏ cuộc vuông tròn 
suốt đời con mãi lịm hồn quặn đau 

tóc con nay đã bạc màu 
năm-mươi-lăm-năm đã qua rồi  
Mẹ ơi ! 

Cao Nguyên 

Tình Mẹ Qua Tác Phẩm Văn Nghệ

Nghĩa Mẹ Tình Mẹ
Qua Những Tác Phẩm Văn Nghệ Việt Nam


Hình như nhà thơ Pháp có nói:
"L'amour d'une mère, l'amour que nul n'oublie".
"Tình mẹ là thứ tình không ai quên được"
Ôi, vào những trường hợp ngạc nhiên, đau đớn người ta kêu "Giời ơi". "Trời ơi," "Phật ơi" và cũng không thể "Mẹ ơi".
Trong thời gian cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp của ta, bộ đội phục kích của ta đã nhiều khi bắt gặp lời kêu "mẹ ơi" "oh maman" của lính Pháp khi bất chợt bị ngã đạn. Sự kiện này đã được cơ quan địch vận của ta ngày đó phổ biến trong truyền đơn, báo chí và truyền thanh để kêu gọi lính Pháp nghĩ đến tình mẹ mà hạ súng, tẩy chay cuộc chiến phi nhân phi nghĩa của thực dân tái chiếm thuộc địa đó.
Mẹ, Tình Mẹ, Quê Mẹ rồi như trong trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy gồm Đất Mẹ, Núi Mẹ, Sông Mẹ, Biển Mẹ, quả thật tất cả những gì dính líu đến Mẹ Việt Nam, tình Mẹ Việt Nam, đều gây một âm hưởng bao dung và hiền dịu, thắm thiết và ai hoài, mênh mông và bất tuyệt trong lòng chúng ta như vậy.
Và chúng ta không ngạc nhiên khi thấy nhạc sĩ Phạm Duy đã đồng hóa Mẹ Việt Nam thành lịch sử Việt Nam, lịch sử một dân tộc bi hùng trên mảnh đất chịu đựng bao đau thương, thử thách này. Chúng ta hãy ôn lại nhạc và lời của khúc trường ca bất hủ này.
Nerhu trước khi chết để lại di chúc xin hỏa táng xác phàm của mình thành tro than, rồi rắc xuống cánh đồng bát ngát xứ Ấn, để được vĩnh viễn thể nhập vào mảnh đất quê hương, để được vĩnh viễn sống giữa những người dân quê Ấn cần cù và muôn vàn khổ cực. Những chính khách lỗi lạc, không vong ân bao giờ họ cũng có cái nhìn kính ái về phía những người dân quê chân lấm tay bùn, tăm tối kia, nhưng chính họ mới là phần nền móng của dân tộc, họ nuôi nước, họ mở nước, họ giữ nước. Cho nên mở đầu trường ca MẸ VIỆT NAM, Phạm Duy đã khẳng định ngay bằng câu ngâm của ca khúc 1 "Mẹ ta", ngay Phần Đầu Đất Mẹ:
Mẹ Việt Nam không son không phấn,
Mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn.
Mẹ Việt Nam không mang nhung gấm,
Mẹ Việt Nam mang tấm nâu sồng.

Tiếng ca như thoát từ lòng đất mẹ, từ luống cày, từ nương khoai, nương sắn, hồn nhiên thanh nhẹ như gió lúa hương cau (cung đô thứ).
Lịch sử Việt Nam từ ngày lập quốc đến nay, dân tộc ta có mấy lúc được thanh nhàn? Lịch sử một dân tộc đoạn trường. Bởi vậy, trong trường ca Mẹ Việt Nam gồm bốn phần (ĐẤT MẸ - NÚI MẸ - SÔNG MẸ - BIỂN MẸ), 21 ca khúc thì ở ngay Phần Một ĐẤT MẸ, sau ca khúc 1 "Mẹ Ta" sang đến ca khúc 2 "Mẹ Xinh Đẹp" là ca khúc tươi tắn nhất. Đây là thuở Mẹ mới là cô gái đôi tám, xuân tình rờ rỡ, má hồng, môi đỏ, mắt long lanh. Đây là ca khúc duy nhất nhịp nhàng, tình tứ, lòng xuân phơi phới, hồn Mẹ như vòm trời xanh thăm thẳm không gợn một chút mây buồn. Vào ca khúc 3 "Mẹ Chờ Mong" đã phảng phất u hoài, mặc dầu sang ca khúc này nhạc sĩ đã chuyển từ cung đô sang cung mi giảm trưởng. Ca khúc 4 "Lúa Mẹ" cũng như ca khúc 5 "Mẹ Đón Cha Về" nét nhạc vào khúc thì tươi dòn nồng thắm, nhưng từ giữa khúc trở đi là mang mang chinh chiến, bàng bạc phân ly.
Sang Phần Hai NÚI MẸ, ca khúc 6 "Mẹ Hỏi", định mệnh truân chuyên những sầu hận biệt ly của mùa chinh chiến miên man, tàn khốc hầu như bất tận đã lộ rõ:
Lính vua, lính chúa, lính làng
Giết bao nhiêu giặc cho chàng phải đi.

Chinh chiến định mệnh bùng nổ "Mẹ Bỏ Cuộc Chơi" (ca khúc 7) là lẽ đương nhiên. Chinh chiến khốc liệt hứa hẹn chắc chắn và gần kề cảnh núi xương chất ngất, sông máu cuộn dâng.
Ca khúc 8 "Mẹ Trong Lòng Người Đi", người ra đi giữ nước vừa mở nước, nhịp mạnh rền Allegro Marcia, cung đô trưởng, hào hùng trong hướng mắt tương lai, nhưng vô cùng ai hoài trong hướng chiếu dĩ vãng, đúng hệt với ý câu thơ khuyết danh nào trước đây:
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.

Mẹ ở lại với con thơ, với vườn dâu, nuôi Mẹ thay chồng. Mẹ đã là chinh phụ. Nghẹn ngào. Héo hon. Sầu chất ngất. Nhưng quả cảm. Cho đến lúc, còn có cách nào khác hơn, "Mẹ Hóa Đá" (ca khúc 10):
Gió mùa đông
Mẹ không thấy mỏi
Đứng trông về
Bốn cõi trời xa
. . . . ..
Thương thi sĩ hay buồn
Cho nên mẹ hóa ra hòn núi cao.

Hạnh phúc sum họp lứa đôi với chồng trước đây chỉ lóe rạng mong manh như ánh bình minh một ngày thu gió giập mưa vùi, rồi là chia ly, nhọc nhằn về thể xác, ê chề về tinh thần, mẹ là chinh phụ, mẹ hóa đá, mẹ chỉ còn biết chắt gạn lấy chút niềm vui ở nơi đàn con thơ đang bừng lớn; nhưng than ôi, bi kịch Mẹ Việt Nam tới đây - (Phần Ba - Sông Mẹ) - mới thật sự bị cuốn hút vào đáy vực của Bão Tố Khổ Đau.
Thoạt Ca Khúc 11 "Muốn Về Quê Mẹ" thốt lời ảo não, vần vũ trong gió chiều, bềnh bồng cùng mây trời, mênh mang cùng trong nước:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn vê quê mẹ mà không có đò.

Vì những dòng sông - lũ con - đã bị cuốn hút vào Dục Vọng, thực sự thành hiện thân của những tham sân si, chịu nặng nghiệp chướng. Từ lập công cứu nước (ca khúc 12 "Sông Còn Mải Mê" chúng đã chuyển sang tranh bá đồ vương với nhau (ca khúc 13 "Sông Vùi Chôn Mẹ"). Mẹ Việt Nam bị xoáy cuộn xuống tới đáy vực bi thảm ở đây, và còn bị tiếp tục giữ ở đáy vực bi thảm này qua hai ca khúc liên tiếp, ca khúc 14 "Sông Không Đường Về", và ca khúc 1 "Những Dòng Sông Chia Rẽ". Mãi cho tới cuối ca khúc này mới thấy một giọt sương mát long lanh, một búp gió hiền, đó là lời gọi bao dung và thiết tha của Mẹ:
Lũ con lạc lối đường xa
Có con nào nhớ mẹ ta thì về."

để chuyển sang Phần Bốn - BIỂN MẸ.
"Trái Cây Đau Khổ" (1) của Phần SÔNG MẸ hung hãn, hẹp hòi, phân hóa, đã mở lối thoát thành Mẹ Trùng Dương (ca khúc 16):
Sóng vỗ miên man
Như câu ru em
Của Mẹ dịu dàng
Nước biếc mênh mông
Như đôi tay ôm
Của Mẹ Trùng Dương
. . . . . .

Mẹ từ thuở ban đầu cô gái quê đôi tám "đôi má tươi hồng, đôi bàn tay trắng, lưng ong, vai lẳn, vú căng tròn" qua cuộc hành trình dài một đời khổ đau, nay đã tóc bạc da mồi.
Đâu đây âm hưởng, tiếng thuyền chài hô biến, âm hưởng sóng vỗ mênh mang, nhưng đó cũng lá tiếng Biển Mẹ gọi con về ca khúc 17 "Biển Động Sóng Gợn" mênh mông và hiền dịu lạ lùng:
Hà hơ... biển động sóng gợn tứ bề
Gọi thuyền viễn xứ quay về biển đông
Sông ra đi từ khi non dại
Từ miền ngoài sông lại Việt Nam
Có từ Hy Mã Lạp Sơn
Cũng về biển mẹ thành con một nhà.

Ý thức và vô thức kiêu mà hiền! Ca khúc viết ở cung mi giảm thứ sáu bémol. Sức chịu đựng và tính bao dung đã đạt tới gần mức sơn cùng thủy tận, để rồi từ đó thoát chyển sang ca khúc 18 "Thênh Thang Thuyền Về", ánh sáng rưng rưng huyền ảo như ánh bình minh đầu tiên miền địa cực sau sáu tháng đêm dài giá lạnh. Nét cò lả quen thuộc mở đầu phần kết thúc cho ca khúc này nghe mềm và ấm như khóc cho hết nước mắt để rửa sạch cõi lòng, truân chuyên còn đấy nhưng thanh thản đã về:
Mẹ già đang đón chờ ta
Có đàn chim én từ xa về rồi
Quê ta đẹp lắm mẹ ơi
Biển êm sóng lặng nước nôi hiền lành.

Và thực sự kết thúc ca khúc bằng ước nguyện nhắn nhủ:
Về đây xây đắp mối tình
Mối tình Việt Nam
Yêu Mẹ già
Thương Mẹ ta
Đàn con nhỏ
Nhớ yêu nhau
Đàn con nhỏ
Nhớ thương nhau.

Chuyển sang ca khúc 19 "Chớp Bể Mưa Nguồn" ta bắt gặp một hình ảnh hướng thượng và thăng hoa vô tiền tuyệt hậu trong thi giới và nhạc giới hoàn vũ:
Mẹ cười bốc thành hơi
Mây từ biển quý lên ngôi trời già.

Cứ như vậy trời mây mở rộng biển cả nối liền thơm ngát yêu thương, thơm ngát tình người, thơm ngát tình thiên nhiên cây cỏ, Mẹ đã thành Bà, từ những chua cay ngút ngàn Mẹ cắn răng chịu đựng, thời gian gội tóc trắng phau phau" (2). Mẹ đau thương lên ngôi Bà hiền hậu với ca khúc 20 "Phù Sa Lớp Mây Trời Cuốn Bay":

Triều dâng
Ngọn sóng theo trăng vào bờ
Ngọn triều dâng sóng nhấp nhô
Đồng chua rộng nới thành ta ruộng mềm
Đền bồi cho máu về tim
Có đàn cháu bé nhìn chim ngoài trời
Mây bay đẹp lắm bà ơi
Làn mây trắng, cuộn khắp nơi đợi chờ
Làn mây che nắng bốn mùa
Hay là cho nước Mẹ mưa ngọt bùi.

Dân tộc Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam, Mẹ Việt Nam, Mẹ tượng trưng cho lịch sử gian truân bi hùng. Như vậy.
Để khép bài này, tôi vẫn muốn nhắc lại câu thơ của người lính xấu số kia, câu thơ thổn thức não nề, hướng về quê nhà, Quê Mẹ, tập trung ở ngay hình ảnh người Mẹ:
Giày vẹt gót, áo sờn vai thấm thấm lạnh.
Những chiều Trường Sơn, núi đồi cô quạnh.
Mẹ hiền ơi con trót nhớ quê mình!!

Mẹ hiền như ánh đuốc soi sáng lương tâm những lúc đi lạc trong biển sương mù.

Saigon, Vu Lan 2517 (1973)
DOÃN QUỐC SỸ

(1) Tên vở kịch của Soạn giả, Sáng Tạo xuất bản 1963
(2) Thơ Đoàn Văn Cừ 

NGÀY HIỀN MẪU

Lời Dẫn

Mẹ là dòng sông đem phù sa tưới mát cho mạ non con tháng ngày tươi thắm, chờ ngày trổ đòng đòng xanh biển lúa quê hương.
Mẹ là bóng mát tàng cao che chở đời con bốn mùa mưa nắng bão giông, tuyết băng sương giá.
Ơn sâu, nghĩa nặng biết ngần nào!
Khoan dung rộng lượng kể xiết bao!
Hạnh phúc thay cho những ai còn Mẹ!
Đớn đau thay cho những đứa con yêu của Mẹ đã xa vắng một vòng tay nâng niu ôm ấp chở che của Người !
Cho anh, cho chị một cánh hồng đỏ thắm để nhớ rằng mình vẫn đang còn có Mẹ trong đời, để mà yêu, mà kính!
Cho em, cho con cài lên ngực áo, nơi mang nhịp thở trái tim thổn thức cùng Mẹ, người đã khuất hương thơm đóa hồng trắng thiêng liêng tình đấng mẫu từ.
Xin kính dâng lên Người đóa tâm hương gửi theo mây ngàn gió núi đến tận nghìn sao.
Nơi Mẹ hiền yêu dấu vẫn luôn dõi mắt trông theo cuộc hành trình thiên lý của chúng con trong cuộc sống làm người.
Kính hiếu dâng lên Mẹ, Người còn đang phả ấm hương yêu cùng chúng con trong cõi nhân gian tấm lòng ghi ân trời bể công đức sinh thành dưỡng dục
Xin ân trên ban cho Mẹ những tháng ngày còn lại trong đời mãi tâm an lạc phúc .
Nhóm " Văn Nghệ Liên Mạng " thân ái kính mời qúy vị và các anh chị em, bằng hữu cùng thưởng thức một Chương Trình Ca Nhạc với chủ đề
CHÚC MỪNG NGÀY HIỀN MẪU như một món quà nhỏ dâng lên mẹ hiền yêu dấu của chúng ta.



Vào link để nghe: Xin bấm vào đây