Thứ Hai, 24 tháng 2, 2020

Chữ Nghĩa

Chữ Nghĩa 

Chữ – Nghĩa:  Chữ / Nghĩa 
Chính xác là: Chữ và Nghĩa. 

Chữ Nghĩa và Thơ, Tâm của tôi  vốc hạt tình gieo thấm cõi đời  hạt rơi thăm thẳm vào trong đất  hạt vọng thênh thang khắp ngõ trời!

Nói về Chữ và Nghĩa, thật rộng bao la. Cứ thử lên Google mà search, bạn sẽ đọc và ngẫm suốt bao lâu cũng không hết Nghĩa của Chữ. Sự biến hóa tài tình của Chữ, chỉ 24 nốt từ A đến Y, trước thì viết, bây giờ thì gõ trên mặt keyboard, có khác nào như ta gõ những nốt Mi, Fa, Sol...
Ráp nối và biến tấu thành những tình khúc Thơ/Nhạc thẩm thấu qua thời gian và không gian hiện hữu và trừu tượng.

Không bàn luận (đúng hơn là tôi không đủ sức để ghé vào bàn và luận) về chữ nghĩa chính thống giòng Việt Tộc, với những pha trộn Hán Nôm, Âu Mỹ. Chỉ nói về Chữ và Nghĩa gởi vào Tình, Đời và Quê Hương, là cả một hành trình Thơ tôi đi từ khởi thủy của sự ráp vần khi còn trong giảng đường đại học, đến khi nhập cuộc vào chiến địa và thả bước lưu vong! Đã đầy lòng tôi những trăn trở trên từng Con Chữ vào Thơ, sao cho cảm Nghĩa bây giờ, mai sau!

Không dễ đâu phải không bạn. Ai đó, và chính xác hơn mới đây, anh Trần Kim Đoàn trong một email gởi tôi, khi tôi (và bạn văn Ấu Tím) báo là đã đọc hết quyển “Tu Bụi” của anh: Mỗi một người đọc tác phẩm của mình là một tác giả thứ hai, họ thẩm định lại giá trị từng Chữ và Nghĩa, và họ có toàn quyền hiểu một chữ khác hay hoặc thích nghi hơn chữ mà tác giả đã viết.

Chẳng hạn tôi đọc lại thơ tôi trong bài “Ơn Em”, đã chỉnh lại câu "điệu vần lóng lánh duyên xưa" thành "điệu vần lánh lóng duyên xưa". Duyên Xưa, Lánh lên và Lóng lại trong lòng mình một Nghĩa ân tình có phải là đẹp lắm không? 
Mới ngày hôm qua, một đọc giả gởi lời hỏi tôi: Có phải anh vừa sửa lại một số Chữ trong bài "Ơn Em"?. Tôi cám ơn người đọc có trí nhớ thật tốt viết lại những Chữ trong câu của bài thơ nguyên thủy. Tuy nhiên, tôi vẫn chưa hài lòng về Chữ và Nghĩa trong bài thơ đó.
Ơn em nhắc tình hạc vọng
đường trăng sóng bước chân thơ
tung tăng ý lời đối bóng
điệu vần lánh lóng duyên xưa

ơn em môi vừa trỗ ngọt
ru tình ngon giấc mơ nồng
nghe vui quyên oanh thánh thót
hát xanh biếc đọt tơ hồng ... 

Nói về "Ơn Em", từ nguyên nhân viết đến Chữ Nghĩa trong thơ. 
Có thể từ một ngẫu nhiên như chiều nay, giữa cái lạnh còn mơn man trong đầu Xuân miền Đông Bắc Mỹ. Chợt thấy thèm một bếp lửa quê nhà. Có lẽ cảm được cái thèm này, mà thằng bạn láng giềng cho ngồi nơi phòng khách với tí tách lửa reo trong lò sưởi, với chút nồng của hương rượu Martin. Và đặc biệt, nghe vài bản tình ca lời thế nhân ngân nga theo mạch đất. Để lại ngẫm về ơn người khi “dòng sông đã qua đời”, để “níu tay nghìn trùng”, để “yêu trong nỗi vui đợi chờ”!

... Ơn em thuyền duyên hư ảo
vượt đời giông bão hồ nghi
nhẹ tênh cánh buồm tâm đạo l
ướt qua lối dạo huyền vi

ơn em tầm nhìn vạn lý
gởi lời tri kỷ vào thơ
phối âm khúc tình tuyệt mỹ
khởi duyên hệ lụy vô bờ!

Chữ và Nghĩa tuyệt vời. Đọc để thấm, nghe để ngấm. Thơ và Nhạc không bao giờ khép lại cánh cửa âm hưởng. Đó cũng là lý do thơ tôi không thường để lại tháng năm sau mỗi bài. Trừ những bài phải mang cột mốc thời gian để thấy sức tàn phá của bom, của lửa, cho niềm đau như vết cắt đương thời trên một không gian tôi đi qua và thơ ở lại!  Tình yêu, không có trước và sau của chữ nghĩa trong thơ. Dẫu một chốc làm nên cuộc tình, nhưng khó mà bỏ quên hay xóa mất cuộc tình như một cái click trên keyboard để lại khoảng trống. Sau khoảng trống hư vô đó, vẫn hiện hữu em, hiện hữu người và hiện hữu dòng sông!

Và thế là có "Ơn Em" trong đời. Ơn từ ý, từ lời ở đâu đó gởi tới chạm nhẹ Lánh lên và Lóng lại trong lòng mình, đủ làm những nốt thơ rung lên như tiếng hạc vọng cuối trời.

Tiếng hạc lưng mây! Tiếng hạc quê mình! Tiếng hạc của tình!
Còn nguyên em, nỗi nhớ nhà
còn nguyên anh, những thiết tha cội nguồn
nguồn nhà, hiện mỗi chiều buông
mắt vần mây tím điệu dồn cố nhân

...  nhớ nhà, nguồn cội mênh mông
dọi lòng lư thảo nỗi bâng khuâng chiều
thu nguyên hạc vọng cung tiêu
trỗi dư thương khúc rong đều bóng câu!

Bài “Hạc Vọng” viết lên từ đó, và người đọc nhắc đến nó không chỉ là những dòng thơ, mà còn minh họa đôi chim hạc bay trên bầu trời xanh thẫm, trong một thư viện net. Không “Ơn Em” thì phải gọi là gì? Một chuỗi nguyên nhân cho một bài thơ cũng đủ chất đầy khoang một con thuyền duyên. Dẫu hư ảo vẫn thấy đẹp vô cùng.

Một phố đời có thật đã xa. Một phố tình vốn ảo cũng mờ. Có tiếc nuối như Bùi Giáng: "Có mùa xuân mà bỏ mặc không hay". Vẫn thấy buồn hiu hắt, khi nhìn bầu trời du cư, mây trắng vẫn bàng bạc bay vào quá khứ. Một quá khứ dài dằng dặc từ hồi tưởng đến va chạm cọ xát nhau qua ngày đêm trăn trở. Một tiếng guốc vọng, một tà áo dài bay, một lời nhắn hỏi... đan xem vào nhau trong màu thực ảo . 
Thực lắm đa đoan, đa của hằng hà vụn vỡ , đoan của trắc trở ân tình. Ảo của vô minh, vô của sắc không, minh của ngụy ngữ .

Thực Ảo là ngữ cảnh của thế nhân, là sự hòa hợp khiên cưỡng khi nhân danh Con Người mà không chịu tách bạch: Con là chi và Người là gì ? Nên đời vẫn nhốn nhào thị phi dọc chu kỳ sinh tử.
Ai đã từng ẩn tích trong thiền tịnh nghe dụ ngôn mà ngộ được sắc không mới dám đặt sinh tử lên bàn cân thế tục, để thấy nghĩa Sinh nặng chình chịch quằn xuống, đẩy nghĩa Tử bay lên nhẹ như chiếc lông hồng. Không được thế, chớ  hoán ngữ điêu ngôn vỗ ngực xưng ta là người trí tuệ. Từ người đến Người có một khoảng cách đủ xa với thứ trí tuệ nhân danh. Nếu không dùng tâm hòa, khoảng cách đó đủ dìm chết danh phận của Người, trở về căn sinh đại thể của Con. Thấu được nghĩa của Con và Người, là thấu được lẽ nhân sinh huyền nhiệm, bước qua cầu sinh tử nhẹ hều.

Buông nhịp gõ để những giọt nghĩ lắng xuống ngấm vào tâm thức. Khi chữ nghĩa hồi sức, ta nhìn cái bóng của ta, tức bản ngã sinh tồn vẫn thường hằng bám gót trên đường phiêu lữ. Mất cái bóng là mất phần định hướng Đông Tây. Mất sự hồi tường lăn vòng theo thực tại khi muốn chạm tay vào mặt đất quê xưa để vuốt mắt cho một loài hoa đã quá giờ được nở, trên hành trình đến và đi của vạn vật. Mỗi điểm trên hành trình, có ngoái sau dòm trước mới thấy sự hiện hữu đáng giá. Trân trọng giữ gìn điều có thể trong những điều không thể, để tiếc từng khoảnh khắc mất đi chẳng còn gì lưu lại.

Chữ Nghĩa hóa thân tôi
bay theo lời hạc vọng
ơn em từ nghìn trùng
về chập chùng cánh mỏng!

Cao Nguyên

Thứ Năm, 20 tháng 2, 2020

Vãi Chữ Lên Trời

Vãi Chữ Lên Trời
“lệnh sáng giữ, lệnh chiều bỏ Huế
Bao chiến công … cũng thế mà thôi
Hải Vân … tro rắc bốn trời
Hạt tro nào … lạc vào nơi Cổ Thành!”
Nhất Tuấn
Trời Đông Bắc Mỹ những ngày cuối Đông xám xịt sau trận tuyết phủ trắng mặt đất. Không thể đi đâu và không thể viết gì lên trời sáng nay vì mất điện.
Cánh cửa thông ra thế giới bên ngoài bị đóng lại. Đành đi vào thế giới bên trong những trang sách. Mắt tôi dừng lại nơi “Rải Tro Theo Gió” của nhà văn Nguyễn Tường Thiết trong Giai Phẩm Xuân 2011/ Người Việt. Kể chuyện những người thân của tướng Ngô Quang Trưởng vãi di thể tro của Ông trên đỉnh đèo Hải Vân.
Đúng là một đoản văn hay, những con chữ cuốn tôi theo dòng hồi tưởng qua một thời đoạn trong chu kỳ sinh tử của một đất nước, một đời người.
Với đất nước:
Trong khoảng thời gian 30 năm, từ lúc nhà văn Nguyễn Tường Thiết gặp tướng Ngô Quang Trưởng lần đầu ở Thủ Đức/Việt Nam (1962), đến lần gặp cuối ở Virginia/Hoa Kỳ (1993). Tôi cũng từ một chinh nhân đi xuyên qua chiến tranh và hòa bình. Một chiến tranh mang đủ chất bi tráng và một hòa bình đau thương trong lòng người dân Việt luôn khát khao ánh sáng tự do và công lý. Những nhiệt huyết dấn thân bảo vệ quê hương bị phản bội bởi đồng mình và nội thù.
Điều còn lại sau cuộc chiến là những hồi tưởng xót lòng khi nhìn chút long lanh trong những hạt bụi của những nhân dáng chinh nhân “vị quốc vong thân” và văn thi nhân “phong trần tải đạo”. Rồi cũng thế ... mà thôi! Lời thơ của Nhất Tuấn buồn u uẩn! Chấm một dấu than hay bỏ lửng, cũng làm chùng tâm người lữ khách của hai miền nội, ngoại cả trong giá rét mùa Đông hay trong nắng ấm Xuân về. Hạt tro nào quyện vào hồn thiêng Tổ Quốc! Hạt tro nào là vóc thân em hiện về:
em về ngồi giữa chơi vơi
uống trăng như thể rượu mời thuở xưa
hỏa châu sáng mấy chưa vừa
còn chong con mắt thắp thừa lòng tin
(rằng ta đi vẽ hòa bình
trên lưng cuộc chiến để tình thăng hoa!)
...
Thế nhưng:
bao nhiêu năm nhân loại tìm
chưa ra bản vẽ hòa bình của em
tấm lưng cuộc chiến còn nguyên
chỉ thêm vết đạn xuyên tim xoắn vào!
Cuộc dấn thân đi vẽ hòa bình trong tình nhân ái đã không được hồi báo theo lòng ước nguyện. Sự tàn bạo của cơn hồng thủy phủ tràn lên đất nước một lớp sóng hòa bình giả tưởng trên những thực thể điêu tàn đến thê lương. Để tôi có những ngày ngồi nơi Quán Gió:
ngồi đây nghe tiếng vó câu
vang sâu thẳm, đáy cốc sầu rượu xưa
chiến bào, màu hổ phách khua
kiếm loang loáng sáng, đắng thừa chạm môi
Và hơn thế, nhìn xuyên đêm qua khung cửa, thấy sương pha trăng rót lấp loáng trên cành cây, ngỡ như còn rõ mặt kiếm cung:
Đêm nhìn sương trăng thấy cành nhớ kiếm
kiếm gãy xuyên đêm rơi suống đất cằn
mộ lá vàng khô gió xếp trăm năm
đá chạm chữ khua lòng ta thao thức!
Với đời người:
Những giọt lệ hồng pha sương đêm thấm đẫm vào suy tưởng có không thân phận một đời người trong vòng thiên mệnh. Biết có, để thấy sự hợp lý của những thử thách sinh tồn vì cuộc dấn thân. Không tự đứng lên là bị dìm xuống dưới khắc nghiệt của thế thời. Biết không, để thôi chấp ngã về những vọng niệm đi về giữa tử sinh, vinh nhục. Cho nhẹ hều thân tâm chờ hóa bụi bay vào vô định!
Giữa khi còn có, còn không. May được nỗi vui giữa những bồi hồi chữ nghĩa gởi cho đất và người những bản chúc thư trầm mặc chờ một cơ duyên hạnh ngộ dẫu như hoang tưởng:
đất không nước và ta người tàn phế
vói đôi tay không thể chạm quê hương
còn hoang tưởng chẻ không gian ngồi ngắm
nước thời gian chảy thấm mạch yêu thương!
Còn hoang tưởng chẻ không gian ngồi ngắm, là còn thấy yêu thương cả trong vụn vỡ một đời người đến độ hóa tro vẫn chứa sự long lanh của dòng nước mắt. Từ những dòng thơ của nhà thơ Nhất Tuấn đến “Rải Tro Theo Gió” của nhà văn Nguyễn Tường Thiết, tôi lan man nghĩ đến và nhớ về những người anh, người bạn hân hạnh biết trên đường chinh chiến và trên hành trình chữ nghĩa đã vào nơi vô định, yên phận tử sinh như các anh Phạm Huấn, Kim Tuấn, Hiếu Anh, Vương Đức Lệ ...! Dẫu họ đã hóa tro bay vào thinh không, những tinh thể vẫn sáng trong tâm tôi. Nếu những hạt tro của thân thương được vãi lên từ một đỉnh cao của quê hương như những hạt tro của tướng Ngô Quang Trưởng được thoát bay từ đỉnh Hải Vân thì quá tuyệt vời. Ai mà không ham tro mình được vãi vào lúc cuối đời! Của phù du trả về cát bụi!
Cho nên vào những ngày cận Tết như hôm nay, sao tôi mong được người về ngồi đối ảnh, dù biết:
còn có gì đâu mà khoản đãi
ngoại trừ dòng chữ rót đau thương
ly biệt xin thôi đừng nhắc mãi
buồn nẫu lòng ta hoài cố hương
người về cũng chỉ là nhân ảnh
ly rượu mời sóng sánh khói hương
Xuân muộn hay trời Đông Bắc lạnh
mà hoa chạnh nở đóa vô thường
Ôi những đóa vô thường dễ thương biết mấy, những đóa hoa yêu thương chẳng bao giờ tàn. Dù khi người về thoát đó lại đi. Chỉ còn lại những giòng chữ lung linh dưới ánh nến chiều cuối năm chạm cửa đêm trừ tịch, đang chờ mùi trầm hương với men rượu hồ trường. Bùi ngùi của quá khứ đủ cho một trầm khúc mới níu gót chân xuân chạm vào hành trình còn mở để nghe ngân tấu bài sử thi ngạo nghễ lời huyết mạch Văn Lang:
Máu ta từ thành Văn Lang dồn lại
Xương da thịt này cha ông ta miệt mài
Từng ngày qua
Cười ngạo nghễ đi trong đau nhức không nguôi
Chúng ta thành một đoàn người hiên ngang
Trên bàn chông hát cười đùa vang vang
Còn Việt Nam
Triệu con tim này còn triệu khối kiêu hùng
(Nguyễn Đức Quang)
Ôi triệu khối kiêu hùng trong lòng người dân Việt đang chờ được hát tiếp lời ngạo nghễ, với hành trang mới lên đường thực hiện giấc mơ cũ của cha, ông trong sứ mạng bảo vệ non sông Tổ Quốc.
Hành trình đi lên còn mở, những ước mơ chưa hề khép lại. Như tôi đang hăm hở chào mùa Xuân khi mùa Đông còn sương tuyết trắng, và em còn những băn khoăn:
em hỏi: còn Đông sao chào Xuân?
thưa rằng: đời vẫn đợi tin mừng
từ trong sương tuyết hừng đông mới
nắng cứ xôn xao rộn cả lòng!
Giữa hai cuộc gọi trưa nay, một với nhà thơ Nhất Tuấn – người cùng thời đã tặng tôi những ân tình chữ nghĩa, và một với trung tá Tôn Thất Tuấn – một hậu duệ đã gởi tôi những tâm cảm chân thành về thế hệ đàn anh. Đã làm thành một chiếc cầu vồng quá đẹp nối hai nhịp quá khứ với tương lai. Chiếc cầu vồng lấp lánh sáng những hạt tro hồng vãi bay theo gió trên đỉnh Hải Vân, trên đỉnh cao của tình người miên viễn trân trọng phẩm giá nhân sinh công bằng và bác ái.
Cám ơn nhà văn Nguyễn Tường Thiết đã cho tôi cảm hứng gõ thêm những giọt chữ trên dòng sông tâm thức nối mạch đông tây và sau trước của một phận người còn hào sảng với những ước mơ. Còn rưng lòng cảm xúc tri ân những hạt tro hồng vị quốc vong thân!
Chỉ còn chờ có điện, đèn bật sáng, tôi vãi chữ lên trời! Lời thong dong bay trong cõi đời hư ảo!
Cao Nguyên
Mùa Xuân 2011
@
Nghê Lữ diễn đọc:

Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2020

Đại Họa Mất Nước

Thảm Họa Bắc Thuộc 

Từ Chiến Tranh Vi Trùng do Trung Cộng khởi phát, mời xem phim "Đại Họa Bắc Thuộc" đối với Việt Nam.
Phim do VietNam Film Club thực hiện với các tài liệu lịch sử và các nhân chứng diễn trình.
Bộ phim được chia ra làm 4 phần:

- Phần 1: nói về Trung-quốc như là một đế quốc bành trướng lúc nào cũng lăm le xâm-chiến VN .

- Phần 2: nói về những bước xâm lăng VN của Trung quốc trong những năm từ chiến tranh biên giới năm 1979 và nhất là từ Hội Nghị Thành Đô rất nhục nhã cho Hà Nội (Ngoại-trưởng
Nguyễn Cơ Thạch hồi đó đã nói: “đây là bắt đầu một giai-đoạn Bắc-thuộc mới”.

- Phần 3: nói về lịch-sử chống Trung-quốc của Việt-nam từ Lý Thường Kiệt đến Trần Quốc Tuấn, Lê Lợi-Nguyễn Trãi, Quang Trung.

- Phần 4: là về sự đứng dậy của người dân hai miền và nhất là của tuổi trẻ Việt Nam 
.
Cao Nguyên

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2020

Nỗi Nhớ Khôn Nguôi


Nỗi Nhớ Khôn Nguôi
1 -
mới Tháng Hai, đã nhớ Tháng Tư
chưa qua Xuân đã chết nụ cười
trời gió chướng - được mùa nước mắt
tràn qua tim, chảy suốt đời người!


từ Phố Bolsa - nhìn thấy lửa
cháy đỏ trời dọc theo Sông Ba
bạn bè chết, nhớ tên từng đứa
gọi nhau vào bi khúc xót xa!


2 -
giữa Tháng Hai, đã nhớ Tháng Tư
tại ký ức nhầm ngày, lộn chỗ
hay đến kỳ siêu độ bạn ta
bốn - mươi - năm tìm không thấy mộ!


nỗi buồn ấy hiển nhiên có thực
ai không tin - cứ hỏi bạn ta
viên đạn nào bắn vào giữa ngực
khi tim còn dồn nhịp thiết tha!


3 -
Tây Nguyên ơi! gót hồng, đất đỏ
vội vàng chi đi chẳng giã từ
để bây giờ còn nghe tiếc nhớ
núi rừng xưa in cả bóng người!


Ruộng Đồng hỡi! luống cày vỡ đất
gieo cho xanh hạt giống Tin Yêu
từ mỗi chỗ đau buồn rất thật
triệu đoá hồng Nhân Ái mọc lên!


Cao Nguyên