Chủ Nhật, 26 tháng 5, 2013

Nguyễn Văn Vĩnh - nhà văn hóa tiền phong

nvvinh2505


Dân Bách Việt vốn có một nền văn hóa đặc biệt, từng rực sáng mỗi khi giành đưc độc lập nhưng trong mấy ngàn năm lệ thuộc phương Bắc, bản sắc phương Nam bị văn hóa nòi Hán tràn sang, xâm lăng, đẩy ra khỏi nơi cung đình và tâm trí giới quan liêu và Nho sĩ nên tản mác ở chốn dân gian và nhiều khi có nguy cơ bị tiêu diệt.

Sang thế kỷ XIX, cuộc tiếp xúc giữa Đông Tây trên bán đảo Đông Dương, nếu mang theo họa ngoại-xâm-mới thì nó cũng đưa lại cơ hội để dân tộc ta trở mình thoát dần khỏi ảnh hưởng Bắc đình.

Lịch sử còn ghi lại sau thỏa ước Fournier hay Thiên tân, ký kết giữa Lý Hồng ChươngTrung tá hải quân PhápErnest Francois Fournier ngày 11-05-1884, thì Trung hoa trong lúc suy yếu đành nhìn nhận vĩnh viễn nhường quyền bảo hộ Việt Nam cho Pháp.

Ngày 6 tháng 6, 1884 triều đình Huế đã bị buộc đem ấn bạc của vua Thanh cấp cho Nam triều, một biểu tượng của sự lệ thuộc vào Bắc đình, đến sứ quán PhápHuế đ phá ra, đúc thành khối bạc trước mặt đại diện của Pháp. Biến cố này có thể làm cho đám Nho sĩ thủ cựu đau lòng thì lại dấy lên tinh thần độc lập và hy vọng của phần lớn quần chúng. Kể từ đó đất nước ta chấm dứt sự lệ thuộc vào Trung hoa về thể chế chính trị và văn hóa.

Thực ra, Thực dân Pháp không hề có hảo tâm “Pháp-Việt đề huề” mang văn minh Tây phương sang khai thông dân trí cho dân Việt mà chỉ muốn liên hệ giữa ta và Tàu chính thức chấm dứt để cột chặt ta về mọi mặt vào Pháp. Tuy nhiên, các nhà văn hóa tiến bộ như Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của Nguyễn Văn Vĩnh đã nhân cơ hội có văn tự mới, có nhà in, có tài trợ, có báo chí trong tay đã lèo lái ý đồ của thực dân sang mục tiêu cải cách văn hóa để xây dựng nền tảng cho một quốc gia độc lập. Muốn làm việc này, các kẻ sĩ ưu thời mẫn thế đương thời chỉ có thể âm thầm thực hiện từng bước.

Bước quan trọng nhất là xây dựng cho dân Việt một thứ văn t độc lập với Tàu và với Tây. Đó chính là chữ Quốc ngữ từng được hình thành khi các giáo sĩ Thiên chúa giáo dùng nó để truyền đạo ở Việt Nam từ thế kỷ XVII. Nhờ đó, ta có phương tiện gây dựng tinh thần tự chủ, phục hồi được truyền thống dân tộc và đồng thời truyền bá được tư tưởng tiến bộ cần thiết cho một dân tộc trong nhiều nghìn năm bị giam hãm trong lạc hậu và hủ tục.

Có công đầu và mạnh dạn nhất trong việc xây dựng văn hóa mới hồi đầu thế kỷ XX phải kể Phan Chu TrinhNguyễn Văn Vĩnh. Phan Chu Trinh từng cổ súy phong trào Duy Tân, đã hô hào thay Khổng học bằng văn mình Tây phương: “Đem văn minh Tây phương về là đem Khổng học về”.

Còn Nguyễn Văn Vĩnh là lớp đàn em, nhưng cùng nuôi mộng cải cách văn hóa và có nhiều cơ hội để làm việc này hơn chí sĩ học Phan. Nhờ có báo chí trong tay và có kiến thức sâu rộng về cả hai nền văn minh Âu Á, đồng thời là nhà báo tài ba và nhiệt tâm nhất trong việc xây dựng tiền đ văn hóa dân tộc, nên ông đã đóng góp được nhiều ý kiến quý báu, nhiều hoạt động thiết thực cho mục tiêu của mình.

Trên Đông Dương tạp chí trong 50 số đầu tiên, Nguyễn Văn Vĩnh đã kín đáo nêu lập trường cải cách của mình qua những bài đề cập tới chữ Quốc ngữ.

Trước hết, ông cho rằng chữ Nho chỉ nên giảng dạy ở bậc giáo dục cao chứ không nên buộc học sinh nhỏ tuổi, thuộc thành phần bình dân, phải dùi mài thứ văn tự khó học và vô ích với chúng. Ông cũng cho rằng đối với tiếng Pháp cũng thế, dù có một lớp người cần học để thích ứng với hoàn cảnh mới nhưng không cần thiết cho việc khai thông dân trí nói chung ở tầng lớp bình dân. Từ đó ông hô hào học chữ Quốc ngữ:

Lối thứ hai là lối học riêng của dân An-nam đặt ra cho phần nhiều, cho trẻ con các nhà-quê, thực là một lối mới, xưa nay không có, vì lối học Nho ngày xưa, không phải là một lối học phổ-thông, thực là một lối học đi làm quan Tàu, với cũng như lối Pháp-Việt học bây giờ là lối học đi làm việc với nhà-nước Đại Pháp. Nhưng ai cũng muốn làm quan cả, cho nên ngày xưa đua nhau học Nho thế nào, từ nay giở đi đua nhau học vào lối Pháp-Việt cũng thế!

Còn lối học riêng mới, cũng đặt ra tiểu-học, trung-học, lấy quốc-ngữ làm gốc, mà học cách-trí, vệ-sinh, địa-dư, phong-tục, mỗi thứ một đôi chút, để gây cho lấy nhân-cách của phần nhiều người trong dân An-nam.

Tổng kết lại, thì chữ Nho chỉ còn nên giữ lại để mà dạy ở khoa trung-đẳng nam-học mà thôi, đợi mai sau khi nào có cả khoa cao-đẳng nam-học, hoặc khoa ngôn-ngữ văn-chương ở cao-đẳng, bấy giờ mới lại có nơi khác phải dùng đến chữ Nho.

Bây giờ trẻ con xin nhất quyết đừng cho học chữ Nho nữa, mà các trường Pháp-Việt cũng xin bỏ lối dạy chữ Nho đi.”

Bỏ chữ Nho thì phải có phương tiện thay thế nên Nguyễn Văn Vĩnh lại viết một bài đề cao tiếng ta giàu và đẹp. Ông hô hào luyện văn Việt cho chính xác hơn và sáng tác bằng chữ Quốc ngữ:

Thế mà tiếng nói nước ta, là một tiếng nói hay, đủ tiếng mà diễn ra được hết ý-tình, đủ dùng cho một dân có cương-thường đạo-lý, có cách đàm-luận, có cách lịch-sự, có cách giao-thiệp với nhau cũng tao nhã, chớ có phải là một thứ tiếng hèn mọn như tiếng nói của mấy giống dã man ở châu Phi đâu.

Cho nên người Âu-châu đến đây, cũng muốn học lấy tiếng nói ấy, để giao thiệp với ta, cho mỗi ngày thêm thân-ái, thêm biết ý tình nhau ra, tiện cách dạy bảo ta. Mà muốn học được tiếng nói một nước, cần nhất là có sách vở hay, làm bằng tiếng nói nước ấy, để làm điển cho chỗ xuất-xứ.

Thế mà sách ta không có, thành ra học tiếng chỉ có cách liệu người nghe ta nói truyện với nhau làm mực, lấy phương-ngôn, tục-ngữ làm điển. Mà cách nói chuyện, phương-ngôn, tục-ngữ của nước ta, chẳng qua cũng cứ truyền khẩu đi, không có gì làm bằng cứ, mỗi nơi nói một khác, đọc một khác; mỗi người nói một cách, đọc một cách. Thành ra tiếng An-nam ta, tuy là một tiếng rất hay, rất nhiều tiếng, mà văn-tự hóa ra chưa có, ngày nay mới bắt đầu làm ra cho thành văn-tự.

Việc làm văn-tự ấy chẳng những cần cho người ngoại-quốc học tiếng ta; lại cần cả cho ta học lấy mẹo-mực tiếng ta, để mai sau này có một tiếng nói nhất định rõ ràng mà nói với nhau, mà học-hành các thuật hay, các ý-tưởng mới, nhờ phong-trào mới mà sinh ra.

Nay muốn gây cho văn-tự nưc Nam có kinh có điển, thì bao nhiêu những bậc tài-hoa, những người có học-thức trong nước, phải chuyên vào nghề văn quốc-ngữ. Các bậc danh nho thì nên bỏ quách cái tài ngâm hộ cho người đi, chỉ học cho biết để mà nhân cái hay người làm lấy cái hay của mình mà thôi. Các bậc có Pháp học, thì tuy rằng cái ngoại tài ấy phải chuyên làm cách chen cạnh, làm mối kiếm ăn, nhưng hễ muốn nhân việc lập thân mà lại có ích cả cho đồng-bào mình, thì phàm luyện được một chút tài nào của người, cũng nên dùng quốc-văn mà phát-đạt nó ra cho cả ngưi đng bang được hưởng.

Nào báo quốc-ngữ, nào sách học quốc-ngữ, nào thơ quốc-ngữ, nào văn-chương quốc-ngữ, ấn-ký, hành-trình, tiểu-thuyết, nghị-luận, tờ bồi việc quan, đơn từ kiện tụng, nên làm toàn bằng chữ quốc-ngữ hết cả. Từ đến những cách cao-hứng, vịnh-đề, tình hay, cảnh đẹp, từ câu-đối dán nhà, tứ bình treo vách, câu phúng bà con, nhời mừng bạn-hữu, đều nên dùng quốc-văn hết thảy. Mà cốt nhất là, phải tập lấy lối văn xuôi, diễn dịch như in nhời nói, cho rõ ràng, cho nhất định, phải khiến cho nhời văn-chương theo nhời mẹ ru con, vú ấp trẻ, nhời anh nói với em, vợ nói với chồng; chứ đng có đ cho văn-chương thành một cách nói lối, mà tiếng nói vẫn cho là nôm tục. Văn-chương phải như ảnh tiếng nói, và tiếng nói phải nhờ văn-chương hay mà rõ thêm, mà đủ thêm ra.

Lại còn một điều khẩn-yếu, là muốn cho văn quốc-ngữ thành văn-chương hay, khỏi mang tiếng nôm na mách qué, cách đặt câu, cách viết, phép chấm câu, phải dần dần đặt cho thành có lệ có phép; mà lệ phép thì phải theo ý nhiều người đã thuận, chớ đừng ai tự đắc lối của mình là phải, đem ý riêng ra sửa đổi thói quen.

Phải nhớ câu: phàm ngôn-ngữ nước nào cũng vậy, dầu tài thánh trạng một người cũng chẳng làm ra được.”

Nguyễn Văn Vĩnh đã nối chí giới kẻ sĩ tiến bộ trong Đông Kinh Nghĩa thục không ngừng hô hào sử dụng chữ Quốc ngữ vì nó là phương tiện truyền thông tiện lợi hơn cả chữ Nho và chữ Nôm:

Chữ quốc-ngữ tuy rằng có mấy nơi khuyết-điểm, có mấy chỗ không-tiện, song tỉ với chữ-nôm ta, và chữ-nho thì thực là một lối tiện quá rồi, cho nên ai cũng đành rằng cứ nên để y như vậy mà dùng.”

Ý kiến của Nguyễn Văn Vĩnh về cải cách văn t và xây dựng văn học xuất hiện cách đây gn trăm năm, khi phần đông k đi học còn đắm chìm trong cái học nhà Nho hoặc cái học Âu Tây nên phải kể là tiến bộ. Hồi chuông ông gióng lên với giới trí thức ngày ấy đã có tiếng vang và một lớp tân học đông đo đã theo gót chân ông tiếp tục xây dựng thành công nền văn học chữ Quốc ngữ thời kỳ thịnh vượng 32-45.

Hoàng Yên Lưu
 

Thứ Sáu, 17 tháng 5, 2013

TÌNH MẸ

 
Nghĩa Mẹ Tình Mẹ
             Qua Những Tác Phẩm Văn Nghệ Việt Nam
Hình như nhà thơ Pháp có nói:
"L'amour d'une mère, l'amour que nul n'oublie".
"Tình mẹ là thứ tình không ai quên được"
Ôi, vào những trường hợp ngạc nhiên, đau đớn người ta kêu "Giời ơi". "Trời ơi," "Phật ơi" và cũng không thể "Mẹ ơi".
Trong thời gian cuộc kháng chiến thần thánh chống Pháp của ta, bộ đội phục kích của ta đã nhiều khi bắt gặp lời kêu "mẹ ơi" "oh maman" của lính Pháp khi bất chợt bị ngã đạn. Sự kiện này đã được cơ quan địch vận của ta ngày đó phổ biến trong truyền đơn, báo chí và truyền thanh để kêu gọi lính Pháp nghĩ đến tình mẹ mà hạ súng, tẩy chay cuộc chiến phi nhân phi nghĩa của thực dân tái chiếm thuộc địa đó.
Mẹ, Tình Mẹ, Quê Mẹ rồi như trong trường ca Mẹ Việt Nam của Phạm Duy gồm Đất Mẹ, Núi Mẹ, Sông Mẹ, Biển Mẹ, quả thật tất cả những gì dính líu đến Mẹ Việt Nam, tình Mẹ Việt Nam, đều gây một âm hưởng bao dung và hiền dịu, thắm thiết và ai hoài, mênh mông và bất tuyệt trong lòng chúng ta như vậy.
Và chúng ta không ngạc nhiên khi thấy nhạc sĩ Phạm Duy đã đồng hóa Mẹ Việt Nam thành lịch sử Việt Nam, lịch sử một dân tộc bi hùng trên mảnh đất chịu đựng bao đau thương, thử thách này. Chúng ta hãy ôn lại nhạc và lời của khúc trường ca bất hủ này.
Nerhu trước khi chết để lại di chúc xin hỏa táng xác phàm của mình thành tro than, rồi rắc xuống cánh đồng bát ngát xứ Ấn, để được vĩnh viễn thể nhập vào mảnh đất quê hương, để được vĩnh viễn sống giữa những người dân quê Ấn cần cù và muôn vàn khổ cực. Những chính khách lỗi lạc, không vong ân bao giờ họ cũng có cái nhìn kính ái về phía những người dân quê chân lấm tay bùn, tăm tối kia, nhưng chính họ mới là phần nền móng của dân tộc, họ nuôi nước, họ mở nước, họ giữ nước. Cho nên mở đầu trường ca MẸ VIỆT NAM, Phạm Duy đã khẳng định ngay bằng câu ngâm của ca khúc 1 "Mẹ ta", ngay Phần Đầu Đất Mẹ:
Mẹ Việt Nam không son không phấn,
Mẹ Việt Nam chân lấm tay bùn.
Mẹ Việt Nam không mang nhung gấm,
Mẹ Việt Nam mang tấm nâu sồng.
Tiếng ca như thoát từ lòng đất mẹ, từ luống cày, từ nương khoai, nương sắn, hồn nhiên thanh nhẹ như gió lúa hương cau (cung đô thứ).
Lịch sử Việt Nam từ ngày lập quốc đến nay, dân tộc ta có mấy lúc được thanh nhàn? Lịch sử một dân tộc đoạn trường. Bởi vậy, trong trường ca Mẹ Việt Nam gồm bốn phần (ĐẤT MẸ - NÚI MẸ - SÔNG MẸ - BIỂN MẸ), 21 ca khúc thì ở ngay Phần Một ĐẤT MẸ, sau ca khúc 1 "Mẹ Ta" sang đến ca khúc 2 "Mẹ Xinh Đẹp" là ca khúc tươi tắn nhất. Đây là thuở Mẹ mới là cô gái đôi tám, xuân tình rờ rỡ, má hồng, môi đỏ, mắt long lanh. Đây là ca khúc duy nhất nhịp nhàng, tình tứ, lòng xuân phơi phới, hồn Mẹ như vòm trời xanh thăm thẳm không gợn một chút mây buồn. Vào ca khúc 3 "Mẹ Chờ Mong" đã phảng phất u hoài, mặc dầu sang ca khúc này nhạc sĩ đã chuyển từ cung đô sang cung mi giảm trưởng. Ca khúc 4 "Lúa Mẹ" cũng như ca khúc 5 "Mẹ Đón Cha Về" nét nhạc vào khúc thì tươi dòn nồng thắm, nhưng từ giữa khúc trở đi là mang mang chinh chiến, bàng bạc phân ly.
Sang Phần Hai NÚI MẸ, ca khúc 6 "Mẹ Hỏi", định mệnh truân chuyên những sầu hận biệt ly của mùa chinh chiến miên man, tàn khốc hầu như bất tận đã lộ rõ:
Lính vua, lính chúa, lính làng
Giết bao nhiêu giặc cho chàng phải đi.
Chinh chiến định mệnh bùng nổ "Mẹ Bỏ Cuộc Chơi" (ca khúc 7) là lẽ đương nhiên. Chinh chiến khốc liệt hứa hẹn chắc chắn và gần kề cảnh núi xương chất ngất, sông máu cuộn dâng.
Ca khúc 8 "Mẹ Trong Lòng Người Đi", người ra đi giữ nước vừa mở nước, nhịp mạnh rền Allegro Marcia, cung đô trưởng, hào hùng trong hướng mắt tương lai, nhưng vô cùng ai hoài trong hướng chiếu dĩ vãng, đúng hệt với ý câu thơ khuyết danh nào trước đây:
Từ thuở mang gươm đi mở cõi
Ngàn năm thương nhớ đất Thăng Long.
Mẹ ở lại với con thơ, với vườn dâu, nuôi Mẹ thay chồng. Mẹ đã là chinh phụ. Nghẹn ngào. Héo hon. Sầu chất ngất. Nhưng quả cảm. Cho đến lúc, còn có cách nào khác hơn, "Mẹ Hóa Đá" (ca khúc 10):
Gió mùa đông
Mẹ không thấy mỏi
Đứng trông về
Bốn cõi trời xa
. . . . ..
Thương thi sĩ hay buồn
Cho nên mẹ hóa ra hòn núi cao.
Hạnh phúc sum họp lứa đôi với chồng trước đây chỉ lóe rạng mong manh như ánh bình minh một ngày thu gió giập mưa vùi, rồi là chia ly, nhọc nhằn về thể xác, ê chề về tinh thần, mẹ là chinh phụ, mẹ hóa đá, mẹ chỉ còn biết chắt gạn lấy chút niềm vui ở nơi đàn con thơ đang bừng lớn; nhưng than ôi, bi kịch Mẹ Việt Nam tới đây - (Phần Ba - Sông Mẹ) - mới thật sự bị cuốn hút vào đáy vực của Bão Tố Khổ Đau.
Thoạt Ca Khúc 11 "Muốn Về Quê Mẹ" thốt lời ảo não, vần vũ trong gió chiều, bềnh bồng cùng mây trời, mênh mang cùng trong nước:
Chiều chiều ra đứng bờ sông
Muốn vê quê mẹ mà không có đò.
Vì những dòng sông - lũ con - đã bị cuốn hút vào Dục Vọng, thực sự thành hiện thân của những tham sân si, chịu nặng nghiệp chướng. Từ lập công cứu nước (ca khúc 12 "Sông Còn Mải Mê" chúng đã chuyển sang tranh bá đồ vương với nhau (ca khúc 13 "Sông Vùi Chôn Mẹ"). Mẹ Việt Nam bị xoáy cuộn xuống tới đáy vực bi thảm ở đây, và còn bị tiếp tục giữ ở đáy vực bi thảm này qua hai ca khúc liên tiếp, ca khúc 14 "Sông Không Đường Về", và ca khúc 1 "Những Dòng Sông Chia Rẽ". Mãi cho tới cuối ca khúc này mới thấy một giọt sương mát long lanh, một búp gió hiền, đó là lời gọi bao dung và thiết tha của Mẹ:
Lũ con lạc lối đường xa
Có con nào nhớ mẹ ta thì về."
để chuyển sang Phần Bốn - BIỂN MẸ.
"Trái Cây Đau Khổ" (1) của Phần SÔNG MẸ hung hãn, hẹp hòi, phân hóa, đã mở lối thoát thành Mẹ Trùng Dương (ca khúc 16):
Sóng vỗ miên man
Như câu ru em
Của Mẹ dịu dàng
Nước biếc mênh mông
Như đôi tay ôm
Của Mẹ Trùng Dương
. . . . . .
Mẹ từ thuở ban đầu cô gái quê đôi tám "đôi má tươi hồng, đôi bàn tay trắng, lưng ong, vai lẳn, vú căng tròn" qua cuộc hành trình dài một đời khổ đau, nay đã tóc bạc da mồi.
Đâu đây âm hưởng, tiếng thuyền chài hô biến, âm hưởng sóng vỗ mênh mang, nhưng đó cũng lá tiếng Biển Mẹ gọi con về ca khúc 17 "Biển Động Sóng Gợn" mênh mông và hiền dịu lạ lùng:
Hà hơ... biển động sóng gợn tứ bề
Gọi thuyền viễn xứ quay về biển đông
Sông ra đi từ khi non dại
Từ miền ngoài sông lại Việt Nam
Có từ Hy Mã Lạp Sơn
Cũng về biển mẹ thành con một nhà.
Ý thức và vô thức kiêu mà hiền! Ca khúc viết ở cung mi giảm thứ sáu bémol. Sức chịu đựng và tính bao dung đã đạt tới gần mức sơn cùng thủy tận, để rồi từ đó thoát chyển sang ca khúc 18 "Thênh Thang Thuyền Về", ánh sáng rưng rưng huyền ảo như ánh bình minh đầu tiên miền địa cực sau sáu tháng đêm dài giá lạnh. Nét cò lả quen thuộc mở đầu phần kết thúc cho ca khúc này nghe mềm và ấm như khóc cho hết nước mắt để rửa sạch cõi lòng, truân chuyên còn đấy nhưng thanh thản đã về:
Mẹ già đang đón chờ ta
Có đàn chim én từ xa về rồi
Quê ta đẹp lắm mẹ ơi
Biển êm sóng lặng nước nôi hiền lành.
Và thực sự kết thúc ca khúc bằng ước nguyện nhắn nhủ:
Về đây xây đắp mối tình
Mối tình Việt Nam
Yêu Mẹ già
Thương Mẹ ta
Đàn con nhỏ
Nhớ yêu nhau
Đàn con nhỏ
Nhớ thương nhau.
Chuyển sang ca khúc 19 "Chớp Bể Mưa Nguồn" ta bắt gặp một hình ảnh hướng thượng và thăng hoa vô tiền tuyệt hậu trong thi giới và nhạc giới hoàn vũ:
Mẹ cười bốc thành hơi
Mây từ biển quý lên ngôi trời già.
Cứ như vậy trời mây mở rộng biển cả nối liền thơm ngát yêu thương, thơm ngát tình người, thơm ngát tình thiên nhiên cây cỏ, Mẹ đã thành Bà, từ những chua cay ngút ngàn Mẹ cắn răng chịu đựng, thời gian gội tóc trắng phau phau" (2). Mẹ đau thương lên ngôi Bà hiền hậu với ca khúc 20 "Phù Sa Lớp Mây Trời Cuốn Bay":
Triều dâng
Ngọn sóng theo trăng vào bờ
Ngọn triều dâng sóng nhấp nhô
Đồng chua rộng nới thành ta ruộng mềm
Đền bồi cho máu về tim
Có đàn cháu bé nhìn chim ngoài trời
Mây bay đẹp lắm bà ơi
Làn mây trắng, cuộn khắp nơi đợi chờ
Làn mây che nắng bốn mùa
Hay là cho nước Mẹ mưa ngọt bùi.
Dân tộc Việt Nam, Tổ quốc Việt Nam, Mẹ Việt Nam, Mẹ tượng trưng cho lịch sử gian truân bi hùng. Như vậy.
Để khép bài này, tôi vẫn muốn nhắc lại câu thơ của người lính xấu số kia, câu thơ thổn thức não nề, hướng về quê nhà, Quê Mẹ, tập trung ở ngay hình ảnh người Mẹ:
Giày vẹt gót, áo sờn vai thấm thấm lạnh.
Những chiều Trường Sơn, núi đồi cô quạnh.
Mẹ hiền ơi con trót nhớ quê mình!!
Mẹ hiền như ánh đuốc soi sáng lương tâm những lúc đi lạc trong biển sương mù.
Saigon, Vu Lan 2517 (1973)
DOÃN QUỐC SỸ
(1) Tên vở kịch của Soạn giả, Sáng Tạo xuất bản 1963
(2) Thơ Đoàn Văn Cừ