Thứ Tư, 8 tháng 12, 2010

HÌNH CHIM TRÊN TRỐNG ĐỒNG LẠC VIỆT

HÌNH CHIM TRÊN TRỐNG ĐỒNG LẠC VIỆT








Trần Gia Phụng




1.- XUẤT XỨ CỦA CHỮ “LẠC”

Tài liệu bằng văn bản quan trọng đầu tiên về chữ “lạc” trong danh từ “Lạc Việt” (Lo Yueh),
cho đến ngày nay tìm thấy được, nằm trong đoạn văn của Giao Châu ngoại vực ký (sách
của Trung Hoa) xuất hiện khoảng giữa đời Tấn (265-420), được nhiều sử sách trích dẫn, từ
Thủy kinh chú (thế kỷ thứ 6) của Lịch Đạo Nguyên (Trung Hoa), đến An Nam chí lược (thế
kỷ 13) của Lê Tắc (người Việt sống ở Trung Hoa), rồi các sách khác về sau nữa.

Lịch Đạo Nguyên, trong sách Thủy kinh chú, đã lặp lại theo Giao Châu ngoại vực ký như
sau: “Giao Chỉ tích hữu quận huyện chi thời, thổ địa hữu lạc điền. Kỳ điền tòng thủy triều
thượng hạ. Dân khẩn thực kỳ điền, nhân các vị Lạc dân, thiết Lạc vương, Lạc hầu chủ chư
quận huyện. Đa vi Lạc tướng, đồng ấn thanh thụ.” (Xưa, khi Giao Chỉ chưa thành quận
huyện, đất đai có ruộng gọi là ruộng lạc, ruộng đó tùy thủy triều lên xuống mà làm. Dân
khẩn ruộng đó mà ăn, vì thế tất cả gọi là dân Lạc. Họ lập Lạc vương, Lạc hầu để coi quận
huyện. Có nhiều Lạc tướng, có ấn đồng lụa xanh.)(1)

Trong An Nam chí lược, Lê Tắc trích như sau: “Tại Giao Châu ngoại vực ký, tích vị hữu
quận huyện thời, lạc điền tùy triều thủy thượng hạ, khẩn kỳ điền giả vi lạc dân, thống kỳ dân
giả vi lạc vương, phó vương giả vi lạc tướng, giai đồng ấn thanh thọ...” (Giao Châu ngoại
vực ký chép: hồi xưa, chưa có quận huyện, thì lạc điền tùy theo thủy triều lên xuống mà cày
cấy. Người cày ruộng ấy gọi là lạc dân, người cai quản dân gọi là lạc vương, người phó là
lạc tướng, đều có ấn bằng đồng và dải sắc xanh làm huy hiệu...)(2)

Tuy hai cách hành văn khác nhau, nhưng ý chung của cả hai phần trích dẫn trên đây, trong
hai sách khác nhau đều bắt đầu rằng ở cổ Việt có một loại ruộng gọi là “lạc điền”, người cày
cấy “lạc điền” đề sinh sống là “Lạc dân”, rồi mới có “Lạc vương”, “Lạc hầu”, “Lạc tướng”.

Di chỉ rõ ràng nhất về nền văn minh Lạc Việt là trống đồng. Khi Mã Viện (Ma Yuan, 14 TCN
- 49) đem quân sang cổ Việt đánh Hai Bà Trưng vào năm 41 (tân sửu), ông lấy được nhiều
trống đồng ở cổ Việt, nhiều đến nỗi ông đã dùng các trống đồng đó để nấu chảy và đúc
thành con ngựa, dâng lên vua của ông là Hán Quang Võ (Han Kuang-wu, trị vì 25 - 57). Sử
sách Trung Hoa gọi trống đồng ở cổ Việt là “Lạc Việt đồng cổ” (trống đồng Lạc Việt).

Như vậy là sau “Lạc điền, Lạc dân, Lạc vương, Lạc hầu, Lạc tướng” thì có thêm chữ “Lạc
Việt đồng cổ”. Từ các tài liệu Trung Hoa trên đây, danh xưng Lạc Việt được dùng để chỉ
chủng người sống trên đất cổ Việt, và là tổ tiên của người Việt chúng ta ngày nay.(3)

Trên mặt cũng như trên thân những trống đồng Lạc Việt, có rất nhiều hình ảnh, trong đó có
hình chim. Không có một tài liệu nào của người xưa giải thích về các hình vẽ, hoặc những
ẩn dụ trong các hình vẽ, khắc trên trống đồng. Các sử sách cổ cũng không giải thích hình
chim trên trống đồng Lạc Việt là chim gì? Nói cách khác, những hình vẽ trên trống đồng Lạc
Việt là hình “câm”. Các giải thích của những học giả đời sau chẳng qua là những lời phỏng
đoán, những giả thuyết mà thôi, và không ai giải mã được đầy đủ ý nghĩa của những hình
vẽ nầy.

Xem tiếp:

Hình Chim Trên Trống Đồng

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét